Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

 

 

 

ĐỰƠC CHỌN GIỮA LOÀI NGƯỜI
VÀ CHO LOÀI NGƯỜI  (x. Dt, 5.1)

 

GIÁO SĨ:

Xuất phát từ giáo dân, hiện diện vì giáo dân và cậy dựa vào giáo dân

 

ĐỂ CÙNG LÀM VINH DANH THIÊN CHÚA

 

www.conggiaovietnam.net                          giaosivietnam@gmail.com

Đặc San Điện Tử    Giáo Sĩ Việt Nam    Số 29, Chúa Nhật 03.12.2006


MỤC LỤC 

Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu (tiếp theo)                           Vatican 2

LINH MỤC SỐNG GẮN BÓ VỚI THÁNH THỂ                                                                  GSVN

GIÁC  NGỘ                                                                                            Lm. Đỗ Vân Lực, O.P.

TÙ NHÂN BA-BY-LON                                                                                             Bùi Nghiệp

GIÁO DÂN ĐỢI CHỜ GÌ NƠI LINH MỤC?                                 Lm. Anre Đỗ Xuân Quế, O.P.

“MẶT TRỜI LẤP LÁNH TRÊN CAO VỪA XA VỪA GẦN”                        Lm. Vĩnh Sang, DCCT

THẦN HỌC VỀ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN                                                   Trần Hữu Hạnh, fsf

Vua lòng nhân hậu                                                                             Lm. Nguyễn Ngọc Long

NỢ LÒNG                                                                                                 Hoàng Thị Đáo Tiệp

ÁP DỤNG GIÁO HUẤN CỦA HỘI THÁNH VÀO VIỆC ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CHO CÁC CHỦNG SINH                                                                  Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY

Một Số Ngộ Nhận với Bệnh Tiểu Ðường                                               Bác sỹ Nguyễn Ý-Đức


Sắc Lệnh về Canh Tân Thích Nghi Đời Sống Dòng Tu (tiếp theo)

 

Việc canh tân thích nghi các hội dòng lệ thuộc rất nhiều vào việc huấn luyện tu sĩ. Vì thế, không được cho các tu sĩ không phải là giáo sĩ và các nữ tu ra làm việc tông đồ ngay khi vừa mãn nhà tập, nhưng phải tiếp tục huấn luyện họ cách thích đáng về mặt tu trì, tông đồ giáo lý và kỹ thuật trong những nhà có đủ điều kiện; cũng nên cho họ thi lấy những văn bằng thỉch hợp.

 Nhưng,để việc thích nghi đời tu dòng với những đòi hỏi của thời đại chúng ta không chỉ hời hợt bên ngoài, và để những tu sĩ chuyên lo việc tông đồ bên ngoài theo hiến chương khỏi thiếu khả năng chu toàn nhiệm vụ, phảí cho họ học biết cách thích đáng những lối sống, cách cảm nghĩ và suy tư đang thịnh hành trong xã hội hiện tại, mỗi người tùy khả năng trí thức và tâm tính riêng. Phái biềt hòa hợp các yếu tố của việc huấn luyện sao cho người tu sĩ có một đời sống thuần nhất.

Suốt đời các tu sĩ hãy chuyên chăm hoàn bị việc huấn luyện tu đức giáo lý, kỹ thuật; còn các Bề Trên hãy tùy sức lo cho họ có cơ hội, phương tiện và thời giờ để chu toàn bổn phận ấy.

Các Bề Trên cũng có nhiệm vụ chọn lựa kỹ lưỡng và chuẩn bị cẩn thận những vị Giám Đốc, Linh Hướng và Giáo Sư.

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
LINH MỤC SỐNG GẮN BÓ VỚI THÁNH THỂ

 

Hẳn rằng tất cả chúng ta đều đã được nghe nói về cha “Piô Năm Dấu”, người đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II nâng lên hàng chân phước vào ngày 02 tháng 5 năm 1999. Một trong những điểm nổi bật trên con đường trọn lành của cha, đó là cha đã thực sự sống mầu nhiệm Thánh Thể.

Mỗi ngày cha đều cử hành thánh lễ một cách thật sống động và sốt sắng, nên đã lôi kéo được nhiều người đến với Thánh Thể Chúa. Thánh lễ của Cha thường kéo dài khoảng 1 giờ 45 phút và đôi khi lên tới 3 tiếng đồng hồ. Đối với cha, đó là những giờ phút quí báu, cha như đứng trên đỉnh đồi Canvê và hoàn toàn kết hiệp với Đức Kitô. Ai đã tham dự thánh lễ của cha, sẽ không bao giờ quên được những dáng điệu, những cử chỉ và những lời kinh. Nét mặt của cha  như được chìm đắm trong ơn thánh…

Khi được hỏi Thánh lễ là gì, cha đã trả lời :

- Thánh lễ là sự kết hợp mật thiết giữa Đức Kitô và tôi. Tôi như bị treo trên thập giá bằng những đinh đóng. Bạn sẽ tìm thấy sự thương khó của tôi trong sự thương khó của Đức Kitô.

Cha còn cắt nghĩa thêm :

- Thánh Thể là phương thế tuyệt hảo nhất dẫn chúng ta tiến bước trên con đường thánh thiện. Nhưng phải lãnh nhận Thánh Thể với quyết tâm thanh tẩy hết những gì không làm đẹp lòng Chúa, Đấng chúng ta đón tiếp và kết hợp trong lòng. Phải tham dự thánh lễ như Mẹ Maria, thánh Gioan và Mađalêna đứng dưới chân cây thập giá trên đỉnh Golgotha, nghĩa là cùng tham dự hy lễ đổ máu của Đức Kitô.

Quả thật không sai khi sánh ví tham dự thánh lễ của cha thì “sốt sắng” như được chứng kiến từng giọt máu chảy xuống. Người ta hỏi tại sao cha lại hay khóc trong thánh lễ, thì cha đã trả lời:

- Tôi không muốn để rơi những giọt nước mắt nhỏ nhoi, nhưng muốn đổ xuống cả một giòng suối lệ. Anh em không thấy thánh lễ thật huyền nhiệm lắm sao ?

Từ tháng 11 năm 1966, vì sức khỏe yếu kém, cha dâng thánh lễ ngắn hơn bằng tiếng Latinh và phải ngồi trên xe lăn.

Qua mẫu gương của cha Piô, chúng ta đi cùng suy tư : linh mục phải sống mầu nhiệm Thánh Thể như thế nào ?

I- THÁNH THỂ, CHÓP ĐỈNH CỦA ĐỜI SỐNG LINH MỤC.

Trong thông điệp “Ecclesia de Eucharistia”, Giáo hội từ Thánh Thể, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã xác quyết : Thánh Thể không phải chỉ là trung tâm và chóp đỉnh của đời sống Giáo hội, mà còn là trung tâm và chóp đỉnh của tác vụ linh mục. Sở dĩ như vậy là vì bí tích truyền chức được khai sinh ngay từ lúc Chúa Giêsu thiết lập bí tích Thánh Thể, hay nói cách khác chức vụ linh mục được khai sinh cùng với Thánh Thể. (GHTTT 31).

Chính Ngài đã liên kết hai bí tích này lại với nhau một cách chặt chẽ. Thực vậy, trong phòng tiệc ly Ngài đã liên kết bổn phận dành riêng cho các tông đồ và những đấng kế vị với món quà hiện diện của Ngài, món quà biến Ngài trở thành của ăn thiêng liêng nuôi sống linh hồn chúng ta trong một hiến tế duy nhất và cao cả.

Kể từ giây phút ấy và cho tới ngày hôm nay, là tông đồ của Chúa, các giám mục và linh mục đã thực sự chia sẻ sứ mạng tham dự vào khả năng hành động của Đức Kitô.

Khả năng này tỏ hiện rõ ràng nhất khi chúng ta cử hành Thánh Thể. Thực vậy, có thể nói được rằng lúc bấy giờ linh mục cho Chúa Giêsu mượn dung mạo, tiếng nói và đôi bàn tay của   mình : Các con hãy cầm lấy mà ăn…Các con hãy cầm lấy mà uống…Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy. (Lc 22,19).

Ngoài ra, nhìn vào cuộc sống, chúng ta nhận thấy họat động mục vụ của các linh mục thật đa dạng và thuộc nhiều lãnh vực khác nhau, nên rất dễ bị phân tán. Vậy đâu là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, đâu là mối dây liên kết những họat động ấy lại với nhau ?

Công đồng Vaticanô II đã trả lời cho chúng ta hay : sợi chỉ đỏ xuyên suốt ấy, mối dây liên kết ấy chính là bác ái mục vụ. Và bác ái mục vụ này phát xuất trước hết từ nơi Hy tế Thánh Thể. (LM 14). Do đó, hy tế Thánh thể cũng là trung tâm và gốc rễ của toàn thể đời sống linh mục. Nói cách khác mọi họat động của linh mục phải được xuất phát từ Thánh Thể và phải được qui hướng về Thánh Thể.

II- LINH MỤC SỐNG GẮN BÓ VỚI THÁNH THỂ.

Ý thức được tầm mức quan trọng của Thánh Thể đối với linh mục, chúng ta tìm hiểu xem : đâu là những việc cần làm ngay, để nhờ đó, chúng ta được sống gắn bó mật thiết với Chúa Giêsu Thánh Thể.

Dựa vào Công đồng, cũng như dựa vào thông điệp “Eccesia de Eucharistia”, Giáo hội từ Thánh Thể, tôi xin đưa ra một vài việc làm chính yếu :

* VIỆC THỨ NHẤT, ĐÓ LÀ HÃY CỬ HÀNH THÁNH LỄ MỖI NGÀY.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã lấy lại tư tưởng của Công đồng mà khuyên các Linh mục  như sau :

“Vì thế, người ta hiểu được tầm quan trọng cho đời sống thiêng liêng của Linh mục,  cũng như cho lợi ích của Giáo Hội và thế giới, của việc  thực thi lời khuyên của Công Đồng là cử hành Bí Tích Thánh Thể hằng ngày, “dù việc cử hành không thể có giáo dân  hiện diện , vẫn là hành động của Chúa Kitô và Giáo Hội.” (GHTTT 31).

Như vậy, chúng ta thấy các linh mục được khuyến khích cử hành thánh lễ mỗi ngày, dù có hay không có giáo dân tham dự. Và đặc biệt là ngày Chúa nhật, các Linh mục phải tạo những điều kiện thuận lợi để giáo dân có thể tham dự một cách dễ dàng, bởi vì vi?c tham d? thánh lễ Chúa nhật là một đòi buộc mà người giáo dân phải chu toàn, trừ khi có một ngăn trở nghiêm trọng nào khác. Sở dĩ như vậy vì thánh lễ Chúa nhật  là một biểu tượng của sự hiệp thông :

“Sự cổ võ đặc biệt hữu hiệu cho hiệp thông , đặc điểm của Bí Tích Thánh Thể, là một trong những lý do của tầm quan trọng  Thánh Lễ Chúa Nhật…..Bí Tích Thánh Thể là nơi đặc biệt để sự hiệp thông luôn được loan báo và được gìn giữ. Đúng thế, nhờ tham dự vào Bí Tích Thánh Thể, ngày của Chúa cũng trở thành ngày của Giáo Hội, như thế Giáo Hội có thể thực hiện một cách có hiệu quả vai trò của bí tích hiệp nhất.”(GHTTT 41).

Vậy đâu là những mục đích, đâu là những lợi ích của việc cử hành thánh lễ ?

Trước hết, khi cử hành thánh lễ, linh mục phục vụ Thiên Chúa.

Thực vậy, khi cử hành thánh lễ là chúng ta dâng lên Thiên Chúa lễ vật tinh tuyền và tuyệt hảo nhất, đó chính là Mình và Máu thánh Đức Kitô.

Như chúng ta cũng đã biết giữa Thánh Thể và hy tế thập giá có một sự liên hệ mật thiết với nhau. Đúng thế, khi thiết lập bí tích Thánh Thể vào buổi chiều ngày thứ năm tuần thánh, Chúa Giêsu cũng đã thực hiện trước phần nào hy tế Thập giá mà Ngài sẽ hoàn tất vào chiều hôm sau, ngày thứ sáu tuần thánh trên đỉnh đồi Canvê.

Vì vậy, Thánh Thể cũng là một hy tế, bởi vì qua đó Đức Kitô trao ban chính mình Ngài tự hiến tế trên thập giá vì chúng ta, cũng như trao ban chính máu Ngài đổ ra để tẩy xóa tội lỗi cho nhiều người.

Từ đó cho đến nay và đối với Giáo hội, Thánh Thể chính là lễ “tưởng niệm” hy tế của Đức Kitô. Khi cử hành Thánh Thể, Giáo hội tưởng nhớ cuộc vượt qua của Ngài, như lời chúng ta vốn thường đọc :

- Lạy Chúa, chúng con loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại, cho tới khi Chúa lại đến.

Tưởng niệm mà thôi chưa đủ, chúng ta còn có thể xác quyết một cách mạnh mẽ hơn : Hy tế Thập giá và Hy Tế Thánh Thể chỉ là một. Thực vậy, lễ vật duy nhất là Đức Kitô, chỉ khác biệt ở cách dâng mà thôi. Xưa chính Ngài dâng trên thập giá, còn nay được dâng trên bàn thờ  nhờ tay linh mục. Xưa có đổ máu, còn nay không đổ máu nữa.

“Vì trong hy lễ thần linh được cử hành trong thánh lễ, chính Đức Kitô, Đấng đã một lần dâng mình bằng  cách đổ máu trên bàn thờ thập giá, cũng hiện diện và được sát  tế mà không đổ máu, nên hy tế này thực sự có giá trị đền tội.” (GLHTCG 1367).

Dựa vào những điều vừa trình bày chúng ta có thể kết luận như sau :

      1- Nhờ Thánh Thể, hy tế Thập giá được hiện tại hóa :

      “Giáo Hội liên tục sống nhờ hy tế cứu độ, và đạt đến hy tế đó không phải bằng một kỷ niệm đơn thuần đầy niềm tin mà thôi, nhưng còn bằng một tiếp xúc hiện tại, vì hy tế nầy trở nên hiện diện, hiện diện luôn mãi cách bí tích, trong mọi cộng đoàn hiến dâng nó, qua tay của thừa tác viên được thánh hiến.”(GHTTT 12).

       2- Nhờ Thánh Thể, hy tế Thập giá được tiếp tục và kéo dài trong dòng thời gian :

       “Bí Tích Thánh Thể không chỉ là việc khơi gợi biến cố đó, nhưng còn là tái hiện mang tính bí tích của biến cố ấy. Đó là hy tế Thập Giá được tiếp tục trong thời gian. Người ta thấy trong nghi lễ latinh một cách diễn tả rất thích hợp về chân lý nầy trong những lời tung hô mà dân chúng đáp lại lời công bố “mầu nhiệm đức tin” của linh mục :  “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết”. (GHTTT 11).

Tiếp đến, khi cử hành thánh lễ, linh mục còn phục vụ dân  Thiên Chúa.

Trong thánh lễ, linh mục không phải chỉ tụ tập dân Chúa để dẫn đưa họ đến với Ngài, mà còn thay mặt họ mà dâng lên Thiên Chúa lễ vật tuyệt hảo nhất là Mình và Máu thánh Đức Kitô. Vì thế, sau khi rửa tay, linh mục đã kêu mời :

“Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi cũng là của anh chị em được Thiên Chúa là Cha Toàn năng chấp nhận”.

Trong thánh lễ, linh mục không phải chỉ dâng lên Thiên Chúa lễ vật uyệt hảo nhất là Mình và Máu thánh Đức Kitô, mà còn dâng lên Ngài lễ vật của mỗi người tín hữu. Lễ vật của họ chính là những khổ đau buồn phiền, những lao công vất vả họ gặp phải trong cuộc sống thường ngày, bằng cách kết hiệp với hy tế Thập giá của Đức Kitô.

“Nhờ thừa tác vụ của các linh mục, hy tế thiêng liêng của các tín hữu được hoàn tất vì kết hợp với hy tế của Đức Kitô, Đấng Trung Gian Duy Nhất”. (LM 2).

Sau cùng, khi cử hành thánh lễ, linh mục kín múc nguồn sinh lực cho bản thân.

Các linh mục và nhất là các linh mục Việt Nam, thường phải gánh vác nhiều công việc, như người ta thường bảo : Ông cha đi trước, làng nước theo sau. Các ngài được sánh ví như một chiếc chìa khóa vạn năng, passe-partout, nghĩa là lãnh vực nào cũng có thể phải “nhào vô”. Công việc thì quá tải. Áp lực thì nặng nề, nên nhiều lúc đã dẫn tới tình trạng căng thẳng. Stress!

Trong những trường hợp như thế, linh mục sẽ đi tìm cho ra nguồn sinh lực và niềm ủi an ở đâu, nếu không phải là ở nơi Thánh Thể, như lời Đức Thánh Cha đã khẳng định :

“Bằng cách thế nầy, (nghĩa là bằng cách cử hành thánh lễ mỗi ngay), linh mục mới đủ sức thắng vượt tất cả những căng thẳng làm cho ngài bị phân tán trong cuộc sống; mới tìm thấy trong Hy Tế Thánh Thể, trung tâm đích thực của đời sống và tác vụ, sinh lực thiêng liêng cần thiết để đương đầu với những công việc mục vụ đa dạng. Như thế, những ngày sống của ngài sẽ thực sự trở nên  Thánh Thể. “ (GHTTT 31).

Thế nhưng, phải cử hành thánh lễ như thế nào ? Có lẽ chúng ta phải chấp nhận một thực tế đáng buồn, đó là có những linh mục cử hành thánh lễ chỉ vì tiền bạc, có những linh mục cử hành thánh lễ một cách máy móc, cốt làm cho xong bổn phận của mình, có những linh mục vừa cử hành thánh lễ lại vừa lo ra chia trí, hay quát mắng và la lối om xòm…

Vì thế, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong tông thư Dominicae Cenae, đã khuyên các linh mục như sau :

“Khi cử hành thánh lễ, linh mục phải phục vụ Thiên Chúa và giáo dân cách trang nghiêm và khiêm tốn : trong cách cử hành và đọc lời Chúa, ngài còn phải cho giáo dân cảm thấy sự hiện diện sống động của Đức Kitô”. (DC 93).

Đức Thánh Cha mong muốn chúng ta cử hành thánh lễ mỗi ngày cũng trang nghiêm và sốt sắng như cử hành thánh lễ đầu tiên trong cuộc đời linh mục của mình :

“Hằng ngày các con lặp lại lời thánh hiến, làm chứng nhân và người loan báo phép lạ tình yêu vĩ đại xảy ra ngay trên bàn tay các con, hãy luôn tự vấn, nhờ hồng ân Năm đặc biệt này, để cử hành Thánh lễ mỗi ngày với niềm hân hoan và sốt sắng như cử hành Thánh lễ đầu tiên…” (LCXOLVCC 30).

* VIỆC THỨ HAI, ĐÓ LÀ HÃY CẦU NGUYỆN TRƯỚC THÁNH THỂ.

Tuy nhiên, muốn cử hành thánh lễ một cách trang nghiêm và sốt sắng, chúng ta cần phải chuẩn bị : Bàn thờ và các đồ thờ phượng phải sạch sẽ và gọn ghẽ, âm thanh và ánh sáng phải hài hòa và ấm cúng…

Riêng bản thân linh mục cũng cần phải coi xem mình sẽ cử hành ngày lễ nào ? Ý lễ ra làm sao ? Và nhất là cần phải đọc trước lời Chúa, rồi suy nghĩ để gợi ý hay giảng giải cho giáo dân.

Tuy nhiên, điều quan trọng mà Đức Thánh Cha mong muốn, đó là hãy cầu nguyện trước Thánh Thể. Chẳng hạn như :

      - Chầu Thánh Thể :

“Các mục tử có nhiệm vụ khuyến khích, bằng cả chứng tá cá nhân, việc tôn sùng Thánh Thể, đặc biệt là việc chầu Thánh Thể, cũng như việc tôn thờ Chúa Kitô hiện diện trong hình bánh  rượu”.(GHTTT 25).

      - Viếng Thánh Thể :

“Trong ngày, người tín hữu không nên bỏ việc viếng Thánh Thể được lưu giữ trong các nhà thờ với lòng tôn kính đặc biệt, ở một nơi cao trọng, phù hợp với luật phụng vụ, Nhưng lần viếng Thánh Thể như vậy là dấu hiệu tỏ lòng biết ơn, là cách diễn tả tình yêu và nhận ra sự hiện diện của Chúa” (GHTTT 25).

Chính Đức Thánh Cha đã ý thức được giá trị cao quí của những giây phút cầu nguyện trước Thánh Thể và ngài đã làm gương cho chúng ta :

“Trò chuyện thân mật với Ngài và nghiêng mình vào lòng Ngài như môn đệ yêu dấu (Ga 13,25), xúc động trước tình yêu vô viên của trái tìm Ngài là một điều thiện hảo. Quả thật vào thời đại chúng ta, Kitô giáo phải trổi vượt nhất là trong “nghệ thuật cầu nguyện”, làm sao ta không cảm thấy lại có nhu cầu được ở lại lâu giờ, trò chuyện thiêng liêng, tôn thờ im lặng, trong thái độ yên lặng, trước mặt Chúa Kitô hiện diện trong bí tích thánh ? Anh chị em thân mến, nhiều lần tôi đã có kinh nghiệm này và tôi đã múc lấy từ đó sức mạnh, an ủi và sự nâng đỡ”. (GHTTT 25).

* VIỆC THỨ BA, ĐÓ LÀ LÀM CHỨNG VÀ LOAN BÁO TÌNH YÊU THÁNH THỂ.

Thánh lễ kết thúc, mọi người ra về và bước xuống lòng cuộc đời. Riêng linh mục thì cặm cụi với những công việc của mình.

Mặc dù trong một ngày, chúng ta có những giờ giấc và những công việc nhất định, giờ nào việc nấy. Thế nhưng, chúng ta không sống đạo theo kiểu chia ngăn…Trái lại, chúng ta phải sống đạo trong nhà thờ cũng như giữa lòng cuộc đời. Như thế có nghĩa là đức tin và lòng mến của chúng ta phải thấm nhiễm vào từng tư tưởng, từng lời nói, từng việc làm của chúng ta.

Hay nói một cách khác, chúng ta phải biến cuộc đời chúng ta trở thành một thánh lễ nối dài, như một bài hát đã diễn tả :

“Ta về thôi khi thánh lễ đã hết, nhưng đời ta là Thánh lễ nối dài, đem tình thương Thiên Chúa đến  mọi nơi, ta sống sao để thành chứng nhân…”

Chấp nhận những hy sinh gian khổ và thực thi những hành động bác ái yêu thương chính là cách thức giúp chúng ta sống mầu nhiệm hy tế, biến cuộc đời chúng ta thành một của lễ sống động dâng lên Chúa, đồng thời nhờ đó chúng ta làm chứng và loan báo tình yêu của Chúa Thánh Thể cho mọi người.

KẾT LUẬN

“Các con hãy cầm lấy mà ăn”. Trong thánh lễ, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đến tham dự bàn tiệc với Ngài, hiệp thông vào cuộc tử nạn và chia sẻ sức sống phục sinh của Ngài.

Nếu thánh lễ là trung tâm của đời sống Kitô giáo, là nguồn mạch của đời sống Kitô hữu, thì đương nhiên thánh lễ cũng phải là trung tâm và nguồn mạch của đời sống linh mục, bởi vì linh mục xuất phát từ Thánh Thể, linh mục sống nhờ Thánh Thể và sống cho Thánh Thể.

Đời sống của linh mục sẽ èo uột nếu rời xa nguồn sống thần linh này.

GSVN

VỀ MỤC LỤC
GIÁC  NGỘ

 

Phúc Âm Nhật Ký Ngày 26.11.2006

(Ga 18:33b-37)

Cuộc đời lắm khi đầy giới hạn và bế tắc.  Ðức Phật đã đưa ra Bát Chánh Ðạo giúp con người giải thoát tới Niết Bàn.  Bát Chánh Ðạo làm cho con người sáng suốt và khôn ngoan, thoát cảnh vô minh.  Kết quả con người sẽ sống bình an, hiểu biết và giác ngộ, tức là nhập niết bàn, hay trạng thái hạnh phúc và bình an hoàn toàn.

Rõ ràng con đường giác ngộ của Ðức Phật đã gặp con đường giải thoát của Ðức Kitô.  Trong khi Ðức Phật dùng Bát Chánh Ðạo, Ðức Giêsu lại công bố Bát Phúc.  Bát Phúc không nằm trong phạm vi những bổn phận quy định hành vi con người như Bát Chánh Ðạo.  Cả hai đều nhằm tiêu diệt một kẻ thù truyền kiếp của con người, đó là sự vô minh.  Thật vậy, Ðức Phật dùng chính kiến, chính tư duy, chính định, chính ngôn v.v. để dìu dắt con người thoát vòng vô minh.  Ðức Giêsu cũng nói : “Chân lý sẽ giải thoát anh em.”[1]  Ðức Phật chủ trương dục vọng là nguyên nhân đau khổ và chết chóc.  Ðức Giêsu cũng thấy dục vọng trong lòng người phát sinh mọi điều xấu xa.[2]  Trong khi Ðức Phật kêu gọi chính tinh tấn để diệt dục, Ðức Giêsu nói sự thật sẽ giải thoát con người khỏi nô lệ tội lỗi, nguyên nhân sinh mọi đau khổ và chết chóc.  Bởi vậy, có lẽ cả hai đều muốn lấy chân lý hay tri thức để khai quang lòng người, nơi phát xuất mọi tội lỗi. 

Vấn đề của Chúa vượt ngoài phạm vi luân lý.   Chân lý về con người và vũ trụ chỉ là một phần.  Chân lý còn bao trùm cả thế giới Thiên Chúa nữa.  Không những sinh ra để làm chứng cho chân lý,[3]  Ðức Giêsu còn mạc khải chân lý về Thiên Chúa và con người.  Một khi biết rõ chân lý, không những con người được giải thoát, mà còn có sức mạnh vạn năng.  Quả thế, chân lý là đối tượng của lý trí, nhưng nhất là của đức tin.  Nhiều lần Ðức Giêsu nói về sức mạnh đức tin có thể chuyển núi dời non, chữa lành bệnh tật, khu trừ ma quỷ v.v. 

Tự bản thân, không những là chân lý, Ðức Giêsu còn là con đường dẫn đưa ta đến với Thiên Chúa và tha nhân.  Con đường sẽ dẫn con người đến gặp gỡ Thiên Chúa tình yêu. “Ðức Giêsu Kitô là con đường chính mở ra cho Giáo hội”[4] thấy sự thật giải thoát và hồng ân cứu độ.  Nếu Người không làm người và sống giữa chúng ta, chắc chắn nhân loại không thể tìm thấy con đường đến với Thiên Chúa, tha nhân và vũ trụ.  Người sẵn sàng biến thành trung gian để nối kết con người với Thiên Chúa và với nhau.  Từ đó, bông hoa hòa giải đã nở rộ giữa những tương quan chiều dọc và chiều ngang.  

Ðức Giêsu dùng hành động để mạc khải Người chính là chân lý giải thoát. Bởi thế, sau khi nói về sức mạnh chân lý, Người tự xưng là Người Con có quyền giải phóng và đem lại tự do thực sự cho nhân loại.[5]  Khi con người đã được giải thoát và tự do, họ trở thành con cái Thiên Chúa, tức là “những người đứng về phía sự thật.”[6]  Ðúng hơn, họ không thuộc về trần gian, mặc dù còn sống trong trần gian.  Chính ân sủng đã biến họ trở thành những công dân thực thụ của Nước Trời, dưới quyền một thủ lãnh duy nhất hay vua muôn vua, tức là Ðức Giêsu Kitô. Chính vì thế, Chúa mới khẳng khái quả quyết : “Nước tôi không thuộc về thế gian này.”[7]

Trong Nước Thiên Chúa, chỉ có tình yêu và chân lý.  Ðúng hơn, chỉ có một chân lý duy nhất : “Thiên Chúa là tình yêu.”[8]  Trong Vương quốc Thiên Chúa, con người sẽ được mời tham dự bữa tiệc cánh chung.  Ðây là lúc niềm vui bùng phát vì giao ước trong Máu Ðức Giêsu đã hòa giải mọi người với Thiên Chúa.  Muốn được thế, họ phải tình nguyện gìm mình vào máu Người.  Họ phải sẵn sàng hy sinh bản thân để hòa giải muôn người.  Tình yêu là dấu chỉ những người đang sống trong Nước Thiên Chúa.  Ðó cũng là giới răn quan trọng nhất và đòi nỗ lực nhiều nhất.   

Thánh Phaolô quả quyết : “Nước Thiên Chúa là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.”[9]   Ðó là những nét vĩ đại, cao quý và thực tế nhất của Nước Thiên Chúa.  Nước Trời là phần thưởng đầu tiên và sau cùng trong Bát Phúc.[10]  Ðược nhận vào Nước Trời những ai đã sống đạo đức và tranh đấu cho công bình xã hội.  Ðây cũng là điểm mạnh nhất trong cảnh phán xét chung, đặc biệt đối với Tin Mừng Mathêu.[11]  Có một liên hệ mật thiết giữa cánh chung (Nước Trời) và đạo đức.  Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, đúng như lời Chúa Giêsu đã quả quyết : “Nước tôi không thuộc về thế gian này.”[12] Tuy thế, con người vẫn có thể kiếm thấy dấu chỉ Nước Trời đang hiện diện phần nào nơi Giáo hội, trong tâm hồn, giữa cộng đoàn những người công chính. 

Ðể giúp con người đạt tới cứu cánh cuộc đời, Giáo hội hiện diện như một con đường dẫn họ tới Nước Trời. Nước Thiên Chúa trở thành khuôn mẫu và lý tưởng cho cả Giáo hội và nước trần thế.  “Bởi vậy, Nước Thiên Chúa là đỉnh cao lời giảng của Chúa Giêsu, có giá trị cao nhất, và là mục đích lịch sử hướng tới.”[13]  Giáo hội như người đầy tớ phục vụ Nước Trời và là bí tích tiên khởi về Nước Trời.  Dù hoàn hảo tới mấy, Giáo hội không phải là Nước Trời hay thiên đàng.   Bởi vậy, “Giáo hội càng đáng tin cậy hơn khi ít nói về chính mình và ngày càng thuyết giảng nhiều hơn về Chúa Kitô chịu đóng đinh (1 Cr 2:2) và làm chứng cho Chúa bằng đời sống.”[14] 

Nước Trời toàn vẹn vẫn là đỉnh cao của niềm hy vọng nơi các tín hữu.  Niềm hy vọng đó bắt nguồn từ một niềm tin vững chắc vào tình yêu Thiên Chúa thể hiện nơi Ðức Kitô Phục Sinh.  Mầu nhiệm Vượt Qua là chìa khóa mở vào thế giới tương lai.  Ðức Kitô là nền tảng và cứu cánh của nhân loại, lịch sử và vạn vật.[15]  “Nhờ ánh sáng mầu nhiệm của Ðức Kitô, mọi người có thể thoáng thấy thiên đàng trên mặt đất, tìm thấy Thiên Chúa trong nhân loại, và khám phá điều thánh thiêng trong thực tại trần thế.”[16]  Từ đó, con người có thể đóng góp vào công trình của Thiên Chúa và hoàn thành sứ mệnh cuộc đời. 

Thực ra, Nước Thiên Chúa là một ân huệ thuần túy, nhưng cũng chỉ đến với những nguy cơ khôn lường.  Nếu con người không cộng tác, Nước Thiên Chúa cũng không thể trở thành sứ điệp loan báo hòa bình và đem lại niềm vui cho muôn người.  Cộng tác đó bắt đầu từ việc đích thân gặp gỡ Ðấng “đã yêu mến tôi và thí mạng vì tôi.”[17]  Nói khác, cần phải sám hối để trở về với Người.  Sám hối có nghĩa là vui lòng chấp nhận Ðức Giêsu làm trung tâm của toàn thể cuộc sống.  Nhờ đó, chúng ta sẽ bắt mọi sự quy phục Chúa và Tin mừng của Người.[18]

Như thế, con người được tham dự vào vương quyền của Chúa Kitô.  Chúa không làm vua một mình.  Khi bước vào Nước Thiên Chúa, Người đã muốn chia sẻ vương quyền cho chúng ta.  Ðúng hơn, khi được thanh tẩy, Kitô hữu đã trở nên một với Ðức Kitô, nên cũng được tham dự vào vương quyền của Người.  Nhưng vương quyền đó chỉ thể hiện nơi việc phục vụ mà thôi. Bởi thế, càng phục vụ thực sự, Kitô hữu càng tham dự sâu xa vào quyền bính của Người.  Khi đến trần gian, Chúa đã phục vụ đến nỗi hy sinh tất cả mạng sống.  Muốn bước theo Người, Kitô hữu cũng phải xả thân hoạt động cho nhân loại để công lý, hòa bình, tự do và tôn trọng nhân quyền mau hiện hữu trên mặt đất. Có thế, mới sớm thấy ngày thực hiện toàn bộ kế hoạch cứu độ sau cùng của Thiên Chúa cho toàn thể nhân loại.

Lạy Chúa, mọi cuộc canh tân và cách mạng phải bắt đầu từ một khuôn mẫu là Nước Trời.   Xin Chúa vui lòng nhìn đến quê hương yêu dấu của chúng con đang đau khổ và bế tắc về nhiều phương diện.  Xin mở rộng tâm hồn và nối dài những cánh tay phục vụ để  dân tộc chúng con sớm hưởng tự do, hạnh phúc, bình an và ơn cứu độ.  Amen.

đỗ lực,

dzuize@gmail.com


[1] Ga 8:32   [2] Mt 15:19.   [3] Ga 18:37.

[4] Gioan Phaolô II, Redemptor Hominis, 1979, số 13.

[5] x. Ga 8:36.   [6] Ga 18:37.   [7] Ga 18:36.  [8] 1 Ga 4:16. [9] Rm 14:17.

[10] Mt 5:3, 10.  [11] Mt 25:31-46, nhất là những câu 34-36.  [12] Ga 18:36.

[13] New Catholic Encyclopedia, 2nd ed. by Thomson & Gale, Kingdom of God, B. T. Viviano, Farmington Hills : The Gale Group, Inc.,2003 : 173.

[14] Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới Khóa Bất Thường năm 1985.

[15] Gaudium et Spes, số 45, 10, 25, 2, 25.

[16] Encylopedia of Catholicism, ed. ByMcBrien, R. P., Jesus Christ, Lane, D. A., New York : Harper Collin, 1995: 705.  [17] Gl 2:20.

[18] Dictionary of Fundamental Theology, ed. by Latourelle R. & Fisichella R., Kingdom of God, Fuellenbach, J., New York : Crossroad, 1995 : 590.

 
VỀ MỤC LỤC

TÙ NHÂN BA-BY-LON. (Cảm tác Tv.137. (136)

 

Lưu đày phát vãng,

Con cái Si-on!

Đứng ngồi than thở,

Khóc lóc nỉ non.

 

Trường giang lớp lớp lấp xô, bến nước bồi hồi sóng vỗ.

Dương liễu rì rào ngọn lả, thông reo than vãn nguồn cơn.

Khúc tỳ bà chẳng rung dây dìu dặt,

Câu sáo địch nào bật  tiếng véo von.

 

Nhớ tổ tông:

Sách Các Vua ghi - Thái bình thạnh trị,

Sử Biên Niên chép - Ấm áo no cơm.

Vua trung tín cậy Gia-vê phù trợ,

Dân an lành nhờ Thiên Chúa gia ơn.

 

Rộn rã tám hướng cửa ô, điện Giê-ru-sa-lem mở hội!

Tưng bừng mười hai chi họ, thành Si-on nao nức dập dồn.

Cờ tung gió lộng, kèn trống rền vang, nhịp nhàng cung thương sênh phách.

Đèn nến lung linh, khói hương nghi ngút, phơi phới đỏ tía xanh hồng .

 

Rộn ràng nam thanh nữ tú,

Nao nức phụ tử vợ chồng.

Thầy thượng tế lễ tòan thiêu dâng Thượng Đế,

Đức minh quân vui nhảy múa rước Bia Hòm.

 

Thần khí Chúa phủ tràn chở che xã tắc,

Đấng Mê-si ngự giữa bảo vệ giang sơn.

Trang thánh vịnh bồi hồi ấp ngực,

Chữ huấn ca canh cánh nằm lòng.

Một giải sơn hà - mưa hòa nam bắc,

Hai miền đất nước - gió thuận tây đông.

 

Mà hôm nay:

Vong ân nghĩa quên lời giao kết,

Bội thệ minh phụ chữ keo sơn.

No cơm ấm cật , thờ phụng ngẫu thần, gây nhà tan cửa nát,

Ngạo mạn kiêu căng, dể duôi Thiên Chúa, tạo quốc phá gia vong.

 

Cơn thịnh nộ trời cao giáng họa,

Nỗi chán chê đất thấp trỗi hờn.

Lời ngôn sứ giả ngây giả điếc,

Tiếng tiên tri nước đổ lá môn.

 

Tới lúc quân địch công thành, hung hăng đạp phăng tàn sát,

Đến khi kẻ thù đốt điện, bừng bừng lửa cháy tiêu vong.

Chốn núi kiếm lạc đao: thây chồng thành núi,

Nơi rừng gươm lọan giáo: máu chảy thành sông.

 

Con cái Ê-đôm, biệt xứ lưu đày khổ sai phu dịch,

Quan quyền vua chúa, tru di dòng tộc tận diệt sinh tồn.

Bởi chưng phản nghịch, bởi lỗi ngập tràn, đấng  Ya-vê đổ cơn án phạt,

Do tội khinh nhờn, do tâm tự đắc, nên Thượng Đế trút giận thanh trừng.

 

Thương ôi:

Nơi quê người xứ lạ,

Bến nước Ba-by-lon!

Hờ hững huyền cầm treo cành dương liễu,

Nhọc nhằn ôm gối tựa gốc cổ thông.

 

Mặc quan ngục van nài hát xướng,

Mặc lính canh cổ xúy nao lòng.

Đàn chi nữa khi sa cơ lỡ vận?

Hát gì đây thân cá chậu chim lồng?

 

Trước quân thù môi chúc tụng thề khâu nơi miệng!

Trong đất khách lưỡi xướng ca nguyện dính với hàm.

Giê-ru-sa-lem ơi, nếu lòng này hờ hững,

Ya-vê Thiên Chúa hỡi, tay tôi sẽ tê mòn.

 

Thân lạy Chúa vì giao ước cũ , xin đổ sương mai ban người cứu độ,

Tấu lạy Trời nhớ tổ tiên xưa, xin tràn mưa móc hiện đấng chí công.

Chờ mong héo hắt!

Trông đợi mõi mòn!...

Bùi Nghiệp

(Mùa Át 2006)

VỀ MỤC LỤC
GIÁO DÂN ĐỢI CHỜ GÌ NƠI LINH MỤC?

 

Giáo dân Việt Nam rất quí trọng linh mục. Lòng quí trọng này vừa là một lợi điểm lại vừa là một nguy cơ. Là lợi điểm vì giúp cho linh mục cảm thấy mình cần thiết và có ích. Từ chỗ này, linh mục cũng cảm thấy ít bị cô đơn. Là nguy cơ, vì lòng quí trọng ấy có thể làm cớ cho linh mục ỷ y mà tôn mình lên, coi thường thiên hạ, cho mình có quyền ăn trên ngồi trước.

Vì thế, lòng quí trọng này nên đươc coi là một ơn riêng Chúa dành cho hàng ngũ linh mục Việt Nam, để nhờ đó các vị được an vui và phấn khởi trong chức vu. Vậy, với lòng quí trọng này, giáo dân đợi chờ gì nơi linh mục ?

1. Người của Chúa

Từ xưa và bây giờ cũng thế, giáo dân được nghe nói linh mục là một Đức Ki-tô khác, nhất là trong các lễ mở tay (mà bây giờ gọi là lễ tạ ơn sau ngày chịu chức.) Chức linh mục được đề cao và đưa lên đến tận tầng mây. Do sự đề cao quá đáng quyền chức này mà linh mục cũng dễ bị cám dỗ tôn mình lên, nhất là trong ngày chịu chức, khi người ta đến xin phép lành đầu tay hay ngỏ lời chúc mừng. Thời trước Công Đồng Va-ti-ca-nô II, người ta thường đến quì trước tân linh mục để hôn tay và xin phép lành.  

Hồi đầu tháng Mười Hai năm 2004, tại lễ truyển chức linh mục ở Đài Bắc cho mười một phó tế, nhiều người cũng đã làm như thế. Đây là một cử chỉ đầy lòng tin và sự khiêm nhường. Cử chỉ này có thể làm cho tân linh mục xúc động và tăng thêm lòng tạ ơn Thiên Chúa. Có lẽ vì coi linh mục như một Ki-tô khác nên người ta mới có những cử chỉ như thế, và qua đó linh mục phải hiểu rằng giáo dân muốn linh mục là người của Chúa Giê-su và đồng hóa với Người về lòng nhân ái và tinh thần phục vụ. Trong cuộc đời truyền đạo, Chúa Giê-su luôn gần gũi tiếp xúc với người ta và tìm cách làm ơn cho họ. Giáo dân cũng đợi chờ nơi linh mục đức tính này là dễ gặp, dễ nhờ. Vì đức tính này mà linh mục được định nghĩa rất sâu sắc và thâm thuý là con người “được ăn” hay “bị ăn” (Le prêtre est un homme mangé). Kiểu nói này là của một linh mục người Pháp, cha Chevrier, người lập ra hội Linh mục Prado.

Nhiều linh mục ngày nay dành nhiều thời giờ cho mình mà ít cho giáo dân. Có linh mục làm lễ sáng xong là rút lui lên lầu, suốt ngày sống với máy vi tính và các thứ máy móc khác, hoặc đi vắng không mấy khi có mặt ở nhà, mọi việc giao cho văn phòng giáo xứ, khiến cho giáo dân nhiều người cần gặp mà không gặp được. Lại có những cha sở tuy gặp được, nhưng giáo dân rất sợ vì tính lạnh lùng và hay bẳn gắt của cha. Bởi vậy, điều giáo dân đợi chờ nơi linh mục là hoạ lại hình ảnh Chúa Giê-su trong cách hành xử, nói năng và tiếp xúc.

2. Thi hành đúng chức năng

Nói về việc linh mục thi hành đúng chức năng, Đức Giáo hoàng Ghê-go-ri-ô Cả có một bài giảng rất sâu sắc thấm thía. Đại ý ngài than phiền là có nhiều linh mục, nhưng rất ít linh mục chịu làm việc theo chức năng của mình hay có làm thì lại làm những việc ở bên ngoài chứ không phải việc bên trong. Việc chính yếu của linh mục là rao giảng lời Chúa, cử hành bí tích, giáo dục đức tin và lo phần rỗi cho các tín hữu. Những việc này phải làm trước rồi mới đến những việc khác như xây cất, mở mang cơ sở, hoạt động xã hội, phát triển dân sinh v.v… Ở Việt Nam, cha sở có một vị trí xã hội tốt, nói thì dân dễ nghe và người ta cũng hay nhờ thế cha sở để làm công kia việc nọ. Vì thế, cha sở cũng dễ bị cám dỗ trở thành một nhân vật ngoài đời để có thế ăn nói với người ta. Điều này có thể đưa linh mục đi ra khỏi phạm vi chức vụ chính thức của mình. Linh mục không phải là quan. Vậy, phải coi chừng với tính thích làm quan tự nhiên của mình mà luôn nhớ rằng linh mục chính yếu là người phục vụ lời Chúa và Tin Mừng của Người.

Tuy nhiên, nếu linh mục chỉ biết có phòng thánh, nhà thờ và nhà xứ của mình thì cũng không đủ. Mà nếu chỉ lo những công việc ở bên ngoài phạm vi phòng thánh, nhà thờ, nhà xứ thì cũng không được nữa. Vậy phải theo một bậc thang giá trị mà dành ưu tiên cho những việc thuộc bổn phận linh mục. Mà bổn phận đó là làm lễ, giải tội, giảng thuyết, đi kẻ liệt, thăm viếng người nghèo khổ, ốm đau bệnh tật. Một linh mục, nếu làm đầy đủ bổn phận của mình thì chẳng còn thời giờ rảnh rỗi bao nhiêu. Mà nếu có rảnh rỗi thì cũng nên dành thời giờ để học hành đọc sách vở thêm. Làm linh mục rồi nhưng vẫn còn phải học, ít là học cho biết viết bài giảng và giảng thế nào cho người ta nghe được. Soạn và viết bài giảng là một trong những hy sinh hãm mình của linh mục bên cạnh việc giải tội và “đi kẻ liệt”. Thường sau khi làm linh mục rồi, ít ai còn thích hay tiếp tục làm việc tinh thần. Vì vậy, điều giáo dân đợi chờ nơi linh mục là lo cho có giờ để làm việc tinh thần mỗi ngày, ít là để soạn bài giảng, không dài quá, không chạy theo thời sự mà chú trọng vào ý nghĩa lời Chúa, không khuyên lơn hời hợt mà mở lối cho những áp dụng thiết thực, cũng không chiều theo thị hiếu của người nghe mà chú tâm vào việc giáo dục đức tin và đem lại cho người ta một cái gì có chất lượng. Muốn vậy phải tiếp tục học và tìm tòi suy nghĩ.

Một điều nữa cũng nên lưu ý là đồng bào chúng ta thích sự hào nhoáng và hình thức bên ngoài. Người ta thích vui, thích dễ, thích ồn ào. Về điểm này, phải giữ chừng mực. Nếu chiều theo khuynh hướng này thì linh mục cũng dễ trở thành hời hợt nông cạn.

3. Tác phong đích đáng

Giáo dân muốn linh mục có tác phong đích đáng trong cách ăn mặc, nói năng, cư xử. Ngày nay linh mục thường ăn mặc như người đời. An mặc như người ta có cái lợi là dễ hoà đồng, thoải mái, nhưng có cái bất lợi là có thể làm cho linh mục quên danh tính của mình mà không còn giữ gìn hay ít giữ gìn trong lời ăn tiếng nói, trong cách ăn mặc và cư xử với người ta nữa. Tất nhiên, “cái áo không làm nên thầy tu”, nhưng thày tu phải làm cho cái áo của mình có vẻ gì là tu chứ. Vì vậy, tuy ăn mặc như người đời, nhưng linh mục vẫn phải giữ cho mình cái cốt cách là linh mục. Cốt cách đó là phải ăn mặc đơn sơ xứng đáng với con người được học hành, có chữ nghĩa và có văn hoá, không chải chuốt quá đáng mà cũng không lôi thôi xười xĩnh trong cách ăn mặc, bừa bãi trong lối nói năng. Nhiều giáo dân lấy làm ái ngại cho những linh mục áo quần luộm thuộm, đầu tóc bù xù, nói năng bừa bãi. Mới đây có dư luận cho rằng nhiều linh mục trẻ sau 1975 thiếu nhân bản trong cách hành xử. Dư luận này đáng cho các linh mục lưu ý vì có liên quan đến ảnh hưởng và uy tín của các vị trong vấn đề làm chứng cho Chúa và cho đạo.

4. Thận trọng trong vấn đề vật chất

Vật chất ở đây là tiền bạc, của cải, đất đai nhà ở, đồ dùng cá nhân. Các linh mục phần đông không để ý đến vấn đề này bao nhiêu, nhưng giáo dân rất để ý. Người ta vẫn thích những linh mục nào không lo làm giầu hay tìm kiếm cho mình hoặc bà con họ hàng mình của cải vật chất. Họ còn nể trọng những linh mục sống đơn sơ giản dị, không xa hoa trong cách ăn mặc và biết sử dụng bạc tiền một cách đích đáng. Bình thường linh mục nào cũng muốn có một cái máy vi tính, một chiếc xe gắn máy tốt, một máy ảnh kỹ thuật số hảo hạng, một căn phòng đầy đủ tiện nghi, càng sang càng cho là có giá trước mặt người đời. Khuynh hướng này khá mạnh và hiện ra rõ nét nơi nhiều linh mục thuộc thế hệ mới. Đó là kiểu cách tự nhiên theo thói đời. Nhưng linh mục là người đã chọn theo Chúa chứ không theo đời. Lý tưởng là thế nhưng thực tế lại không như vậy. Thành ra linh mục luôn ở trong thế giằng co căng thẳng. Có người hỏi tại sao ít người vào đạo công giáo, trong khi đạo có tổ chức, kỷ luật, nhiều nhà thờ đẹp đẽ, nhiều cơ sở to lớn và các lễ nghi rất tưng bừng lôi cuốn. Chắc có nhiều lý do mà một trong lý do là tại giới linh mục chúng ta xa cách.

Chúng ta xa giáo dân và những người ngoài đạo, lại cách biệt nữa. Sự xa cách đó là do lối giao thiệp và đời sống của chúng ta. Về cách giao thiệp thì có thể vì chúng ta quá bận việc nên không có thời giờ và cơ hội tiếp xúc. Còn về đời sống thì chúng ta cách họ, vì dù sao, nói chung, đời sống của chúng ta vẫn cao hơn phần đông đời sống của ho. Vì thế, về phía chúng ta, xem ra chúng ta ít có dịp và ít có thời giờ; về phía họ, họ ngại và sợ gặp chúng ta. Thực ra, khi người ta không ở cùng một mức độ như nhau, thì cũng khó gặp gỡ và chuyện trò với nhau lắm, trừ ra khi hai bên đều cố gắng để xích lại gần nhau.

Về sự gặp gỡ, giáo dân muốn chúng ta để ý đến những nghèo và ít học. Người ta đã phê bình và còn phê bình những linh mục nào chỉ chơi với người giầu và có học, còn người nghèo hay ít học, có đến gặp thì thường chỉ được tiếp đãi một cách hết sức qua loa hay lạnh nhạt. 

Nói chung, giáo dân còn đợi chờ ở linh mục nhiều lắm, nhưng đại khái trên đây là những điều chờ đợi chính yếu và có thể tóm tắt là nếu hỏi giáo đợi chờ gì nơi linh mục, chúng ta có thể trả lời rằng giáo dân đợi chờ chúng ta :

trở thành người của Chúa

lo làm nên những công việc thuộc đấng bậc mình

ăn ở cho đúng với chức vụ của mình

thận trọng trong việc việc sử dụng của cải vật chất

Làm được bấy nhiêu thì kể là linh mục đã đáp ứng được những đòi hỏi chính yếu của giáo dân rồi vậy. 

LM An-rê Đỗ Xuân Quế, O.P. 

VỀ MỤC LỤC

“MẶT TRỜI LẤP LÁNH TRÊN CAO VỪA XA VỪA GẦN”

 

(Trong nhạc phẩm BỐN MÙA THAY LÁ của Trịnh Công Sơn)

 

Quý độc giả Ephata và Giáo Sĩ Việt Nam thân mến,

 

Tôi chọn nhầm chuyến bay đến thành phố Đà Nẵng, chọn nhầm vì đã không tiên liệu trước được chuyện gì sẽ xảy ra. Máy bay lượn hằng giờ trên không phận của biển Đà Nẵng mà không thể đáp xuống, người ta thông báo rằng “mật độ sân bay” không cho phép đáp, khi xuống đất rồi, tôi mới biết là họ giữ an ninh phi trường cho ông Hồ Cẩm Đào bay lên.

Khi máy bay đưa tôi ra Đà Nẵng dừng hẳn tại bãi đậu, bên cánh trái chúng tôi là chiếc chuyên cơ của phái đoàn Thái Lan, nhiều người xầm xì về sự xấu xí của chiếc chuyên cơ đó, màu sơn loang lổ cũ kỹ và hình dáng nhỏ bé của nó giữa phi trường mênh mông lộng gió miền trung làm tăng thêm vẻ tội nghiệp đáng thương.

Hôm qua đọc báo Tuổi Trẻ ( thứ bảy 25/11/2006 ), mục Thời sự và Suy nghĩ, tác giả Đặng Dũng nói về chuyến đến Việt Nam của thủ tướng Singapore Lý Hiển Long. Tác giả viết rằng, ông Lý Hiển Long đã không dùng chuyên cơ trong chuyến đến Việt nam dự hội nghị APEC, ông cũng không dùng máy bay của hãng Singapore Airlines, nhưng đã ngồi máy bay của hãng Tiger Airways, một hãng hàng không giá rẻ, không có ghế hạng thương gia, không phục vụ ăn uống, giá vé rẻ hơn Singapore Airlines gấp 5 – 6 lần. Đó là cách chọn lựa của ông thủ tướng của một quốc gia nhiều năm nay được xếp vào loại “Rồng Châu Á”.

Tác giả Đặng Dũng lý luận, sự chọn lựa phương tiện di chuyển của ông Lý Hiển Long đã tiết kiệm cho đảo quốc một số lượng tiền không nhỏ, vì ông thủ tướng không chỉ đi một mình, nhưng còn đoàn tuỳ tùng theo nữa. Thái độ tiết kiệm của ông là một bài học nhắc nhở các quan chức dưới quyền phải tiết kiệm. Nhưng tác giả không dừng ở đó, Đặng Dũng còn đi xa hơn, việc ông thủ tướng Singapore bước xuống từ máy bay của hãng hàng không giá rẻ, là hành động thực hiện lời cam kết “chính phủ ủng hộ tối đa cho sự phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa”.

Chắc chắn tác giả Đặng Dũng đã muốn nói với chính quyền Việt Nam, đã muốn nói với các quan chức Việt Nam, không nói sao được khi mấy ngày nay ở Quốc Hội, những đại biểu về từ các miền đất nước, một lần nữa bức xúc chất vấn các lãnh đạo đất nước về việc “lấy nhà công làm nhà tư”, việc sử dụng công xa vượt mức tiêu chuẩn, báo chí đã nói quá nhiều về những tỉnh thành không có khả năng đóng góp ngân sách, những chi xài vô tội vạ tiền ngân sách và lại còn xài sang trong việc mua sắm.

Hôm nay lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ, bài Tin Mừng theo thánh Gio-an thuật lại cuộc phỏng vấn của Phi-la-tô dành cho Chúa Giê-su, thắc mắc của ông đã được Đức Giê-su hoàn toàn giải tỏa, lần đầu tiên và là lần duy nhất Chúa Giê-su xưng mình là vua. Một lát nữa, vài giờ nữa thôi, Chúa Giê-su sẽ đăng quang trên một ngai vua làm bằng đá, có tên là Gap-ba-tha, đầu Ngài sẽ đội vương miện làm bằng gai và áo choàng đỏ của tên hề sẽ là cẩm bào người ta khoác cho Ngài. Rồi cũng vài giờ nữa thôi, cung điện của Ngài sẽ là thập giá, lời tung hô Ngài sẽ là những lời mắng nhiếc và tiệc thiết đãi Ngài là tấm bọt biển nhúng dấm chua.

Điều đó ai là người Ki-tô hữu cũng biết, nhưng thần dân Ngài lại không giống Ngài, không chọn lựa giống Ngài, có mấy người chọn sự khó nghèo làm lập trường sống, có mấy người chọn cống hiến và cho đi làm tiêu chuẩn hướng dẫn đời mình, có mấy người chọn chân lý, chọn sự thật để sống chết cho điều mình đã chọn. Nói đúng hơn có chọn, nhưng chỉ là khẩu hiệu, chỉ là lời nói suông. Không nhiều, nhưng không phải là ít, những tranh đua xây dựng tu viện bằng những vật liệu thời thượng, đã bắt đầu xảy ra trong giới linh mục mua sắm những phương tiện di chuyển như những quan chức cao cấp trong chính quyền, ra vào những cánh cửa của kẻ giàu sang mà quên lối đến với người nghèo, rành địa chỉ những nhà hàng sang trọng hơn rành chuyện buôn thúng bán bưng, thuộc giá những dịch vụ đắt tiền hơn thuộc giá bó rau muống...

Đem ông Lý Hiển Long ra để trương dẫn về Chúa Giê-su thì rất bất xứng, nhưng chắc chắn quan chức của ông Lý sẽ phải giữ lời cam kết của ông Lý với thần dân, “quan chức” của Chúa Giê-su có giữ lời cam kết của Chúa với nhân loại và đặc biệt với người nghèo không ? Hãy trả lời bằng chính cuộc sống của mình.

Chúa Giê-su là mặt trời công chính mới, Mặt Trời đó vừa xa và vừa rất gần với chúng ta.

Lm. VĨNH SANG DCCT, Lễ Chúa Giê-su Ki-tô Vua Vũ Trụ 2006

VỀ MỤC LỤC

THẦN HỌC VỀ ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN

 

I. TỪ NGỮ: THÁNH HIẾN

Theo nguyên nghĩa, sự thánh hiến, cung hiến hay tác thánh, là tách rời một người hay một vật ra khỏi lãnh vực phàm tục, để dành riêng cho công việc thánh. Thí dụ như cung hiến thánh đường, bàn thờ, … Sau khi đuợc thánh hiến, chúng được dành riêng cho việc phụng tự.

Kinh thánh cho thấy con người đã cung hiến cho Thiên Chúa một nơi (bàn thờ, đền thờ: x. Xh 29, 37), một lễ vật (x. Xh 13, 2), một người (x. Xh 28, 41). Nhưng Kinh thánh cũng nói nhiều đến việc chính Thiên Chúa thánh hiến (thánh hóa) con người, thậm chí cả một dân tộc như dân Israel. Theo thần học Kinh thánh, từ thánh hiến được hiểu không những con người cung hiến cho Thiên Chúa cái gì đó; mà còn chính Thiên Chúa thánh hiến con người, tách rời họ khỏi tội lỗi, trở thành sở hữu của Chúa. 

1. Cựu ước

Thiên Chúa đã chọn dân Israel làm dân riêng của Ngài, một dân được thánh hiến cho Thiên Chúa. Đây là sáng kiến xuất phát từ Thiên Chúa, nhưng cũng đòi hỏi sự đáp trả của con người (x. Đnl 4, 37; 7, 6-8; 10, 15; Is 42, 1-7; 43, 8-10; 45, 4; Xh 19, 3-6). Ngài thông ban sự thánh thiện cho họ và đòi hỏi họ phải cố gắng sống thánh thiện: “Các ngươi hãy nên thánh, vì ta là Đấng Thánh.”(x. Lv 11, 44- 45; 19, 2; 20, 7-8. 26) Việc thánh hiến Israel chủ yếu đòi hỏi nơi họ sự tách rời khỏi tội lỗi.

Từ trong dân tộc này, Thiên Chúa cũng chọn và thánh hiến một số người để phục vụ kế hoạch của Ngài: Abram (St 12), Moses (Xh 3), David (1Sm 16), các ngôn sứ (Is 6; 42, 1-7; Gr 1,5), v.v.

2. Tân ước

Khởi nguồn mọi sự hiến thánh là Chúa Kitô. Ngài được Chúa Cha thánh hiến (được thông truyền chính sự thánh thiện của Thiên Chúa, tức thiên tính) và sai đến trong thế gian (x. Ga 10, 36; x. Ga 17, 18-19; Lc 4, 18-19). Bởi vậy, Ngài được tuyên xưng là Đấng Thánh của Thiên Chúa (x. Ga 6, 69; 1Ga 2, 20; Kh 3, 9).

Những gì Cựu ước nói về Israel thì nay được áp dụng cho Hội thánh. Toàn thể Hội thánh trở thành dân được tuyển chọn, dân thánh (x. 1Pr 2, 9-10.19; 1Cr 6,19-20).  

Chúa Kitô cũng cầu xin cho các môn đệ của Ngài, để họ cũng được thánh hiến và được sai đi như Ngài: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật. Như Cha đã sai con đến thế gian, thì con cũng sai họ đến thế gian. Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến.” (Ga 17, 17- 19) Ở đây, chúng ta thấy Chúa Kitô “xin thánh hiến chính mình con.” Ngài tự nguyện dâng trót cuộc đời để thi hành sứ mệnh cứu độ nhân loại, tức thánh hóa họ. Và Ngài cũng muốn các môn đệ của Ngài tiếp tục sứ mệnh của Ngài: thánh hiến và sứ vụ.

Thật vậy, qua cái chết và sự Phục sinh, Chúa Kitô đã đưa thế gian ra khỏi tội lỗi, cho thông dự vào sự thánh thiện của Chúa. Qua bí tích Rửa tội, những người Kitô hữu được thông dự vào ơn hiến thánh của Chúa Kitô: được rửa sạch tội lỗi (x. Ga 15, 3), được thanh tẩy (x. Ep 5, 24), được thánh hóa trong sự thật (x. Ga 17, 17), là những người thánh (x. Rm 1, 7; 1Cr 1, 2; Ep 1, 1; Pl 1, 1; Cl 1, 2; 1Tx 5, 26; 2Tx 1, 10; 1Tm 5, 10; Dt 3, 1). Họ phải sống xứng đáng với ơn gọi nên thánh, vì Đấng đã kêu gọi họ là Đấng Thánh (x. 1Pr 1, 16; 1Tx 4, 3). Họ phải cố gắng nên trọn lành như Cha trên trời là Đấng trọn lành (x. Mt 5, 48).

Tóm lại, theo Kinh thánh, chính Thiên Chúa thánh hiến con người. Do tình yêu, Ngài chọn và tách biệt một người nào đó và thông ban sự thánh thiện của Ngài cho họ. Sự lựa chọn này không chỉ vì ích lợi riêng của người ấy, mà còn trao cho họ một sứ mệnh để phục vụ kế hoạch cứu độ của Ngài nữa. Tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi con người, ban cho họ khả năng để đáp trả lại cũng bằng tình yêu.

3. Sự thánh hiến của đời tu

Thần học cận đại coi đời sống tu là “bậc trọn lành.” Việc sử dụng cụm từ này có thể gây hiểu lầm. Bởi vì, mọi Kitô hữu đều được kêu gọi trở nên trọn lành (x. Mt 5, 48). Công đồng Vatican II cũng đã khẳng định mọi Kitô hữu đều được kêu gọi nên thánh trong bậc sống của mình và có nhiều con đường để nên trọn lành (x. LG 11, 42), chứ không chỉ qua việc giữ các lời khuyên Phúc âm. Thêm vào đó, việc sử dụng cụm từ này sẽ làm cho người ta lầm tưởng rằng chỉ có những người sống trong bậc đó mới buộc phải nên trọn lành, còn các bậc khác thì không buộc. Ngày nay, cụm từ “đời sống thánh hiến/tận hiến” (Vita consecrata), bao gồm cả tu hội đời, đã được sử dụng để chỉ đời sống tu trì, mặc dù nó không được sự đồng tình rộng rãi vì cũng gây ra ngộ nhận rằng chỉ có các tu sĩ là được thánh hiến cho Chúa, còn những người khác không được thánh hiến? Nhưng mọi Kitô hữu đều được thánh hiến qua phép rửa tội.

Ở đây, chúng ta cần phân biệt “nên thánh” trong bậc giáo dân và “nên thánh” trong bậc tu trì: sự thánh hiến phổ quát và sự thánh hiến riêng biệt, ơn gọi phổ quát nên thánh và ơn gọi cụ thể nên thánh theo từng bậc sống. Như đã trình bày, trong Cựu ước, có sự thánh hiến của toàn thể dân Chúa và cũng có sự thánh hiến của các ngôn sứ. Cũng vậy, trong Tân ước, ngoài sự thánh hiến phổ quát dựa trên bí tích Rửa tội, còn có sự thánh hiến đặc biệt của bí tích Truyền chức (x. CCC 1535, 1556-1559), của bí tích Hôn nhân (x. GS 48; CCC 1535), của các hình thức tu trì (x. CCC 916, 931; LG 44; PC 5). Mỗi người phải sống theo đặc sủng đã nhận được (x. 1Cr 7, 7- 20). Chính Chúa Thánh Thần làm cho Giáo hội trở thành một mối hiệp thông hữu cơ, trong sự đa dạng về các ơn gọi, các đặc sủng và các thừa tác vụ (x. AG 4; LG 4, 12, 13; GS 32, CL 30-31)                             

Đời tu là một hình thức tận hiến đặc biệt cho Thiên Chúa, vì sự thánh hiến chính là nền tảng của đời tu. Chính Thiên Chúa thánh hiến người tu sĩ. Ngài kêu mọi một người, tách riêng người ấy ra và trao cho người ấy một sứ mệnh trong kế hoạch cứu độ của Ngài (x. EE 5). Sự thánh hiến của các tu sĩ dựa trên việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm (x. Can 573 §1; EE 4, 7). Việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm tách biệt họ khỏi những sự vật trần thế, để họ chỉ phụng sự một mình Chúa mà thôi (x. PC 5). Đời sống thánh hiến dựa trên phép Thánh Tẩy, nhưng sống bí tích này một cách triệt để hơn. Có thể nói là họ được thánh hiến một lần nữa: “Nhờ phép Thánh Tẩy, họ đã chết cho tội lỗi và được cung hiến cho Thiên Chúa; nhưng để có thể thâu lượm dồi dào ơn ích của bí tích ấy, người Kitô hữu muốn nhờ việc khấn giữ ba lời khuyên Phúc âm trong Hội thánh, thoát ly khỏi những ngăn trở có thể làm cho họ không nhiệt tâm yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa cách hoàn hảo; và họ tận hiến để phụng sự Thiên Chúa cách thân tình hơn.” (LG 44) Đó là “một sự thánh hiến đặc biệt cắm rễ sâu trên sự thánh hiến của phép Rửa tội và bày tỏ sự thánh hiến phép Rửa tội cách đầy tràn viên mãn.” (PC 5; x. LG 44; EE 6) Mẫu gương tuyệt đối của họ là Chúa Kitô, Đấng đã hiến trọn đời để sống cho tình yêu Thiên Chúa. Qua các lời khấn, người tu sĩ bắt chước mẫu gương ấy để dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa. Sự thánh hiến nói lên tình trạng họ được hoàn toàn dâng hiến cho Thiên Chúa, thuộc trọn về Chúa, trở thành sở hữu của Thiên Chúa, chỉ phụng sự một mình Ngài. Đức Gioan Phaolô II gọi đó là một sự thánh hiến mới, vì nó đòi hỏi một ý thức mới, một sự quyết tâm mới, tình yêu và ơn gọi mới, một sự cải hoán mới (x. RD 7) Đời sống thánh hiến được ví như “giao ước hôn nhân với Chúa” (RD 8; x. LG 44, PC 1; EE 5), Đấng đáng yêu trên hết mọi sự.

Chúng ta cũng có thể hiểu là Giáo hội tận hiến tu sĩ cho Thiên Chúa qua phụng vụ cung hiến. Trong phụng vụ, Hội thánh thay mặt Chúa mà nhận lời khấn và qua việc cử hành phụng vụ, Hội thánh trình bày việc tuyên khấn như một tình trạng thánh hiến cho Thiên Chúa (x. LG 45; can 654).

Chúng ta sẽ tiếp tục nói về sự thánh hiến trong đời tu khi khai triển tông huấn Vita Consecrata dưới đây.

còn tiếp

Trần Hữu Hạnh, fsf

VỀ MỤC LỤC
Vua lòng nhân hậu

 

Ngày xưa hầu như nước nào cũng có vị vua cai trị dân. Nhưng từ hậu bán thế kỷ thứ 18 các vua chúa dần biến mất khỏi sân khấu chính trị. Chỉ một ít quốc gia còn duy trì chế độ vua chúa cai trị, như biểu tượng đại diện cho uy quyền quốc gia đất nước: nữ hoàng Anh quốc, nữ hoàng Hàlan, Vua nước Bỉ, vua nước Tây ban nha, vua nước Tháilan, vua nước Arab Saudi...

Dẫu vậy, cũng có nhiều vua mới khác do người ta đặt cho những người thành công nổi tiếng trên sân khấu cuộc đời, như vua dầu hỏa, vua phá lưới môn bóng đá, vua nhạc „ King of Rock´n roll“... 

Vua chúa thật cai trị đất nước hay vua chúa có danh hiệu được đặt cho đều giầu có sang trọng.

Người tín hữu Công giáo cũng có một vị vua: Vua Giêsu. Nhưng Vua của chúng ta như thế nào?

Vua Giêsu của chúng ta có những đặc điểm khác:

- Chỗ sinh ra: trong chuồng súc vật ngoài cánh đồng

- Cha mẹ: những người nghèo trong thôn xóm, sinh sống bằng nghề thợ mộc.

- Bạn bè: những người làm nghề thuyền chài đánh cá

- Quê quán: làng nhà quê Nazareth

- Ði vào thành Giêrasalem: cỡi trên một lừa con

- Quãng đời cuối cuối cùng: bị kết án tử hình đóng đinh vào cây thập gía.

- Mồ mả: ẩn kín trong một khu vườn.

Không có nơi nào trong kinh Thánh thuật lại ngôi nhà hay lâu đài, thủ đô của cha mẹ Chúa Giêsu. Cái chết tức tưởi của Ngài vừa bị kết án hất công, vừa tuỉ nhục bị hành hình cùng với hai tên trộm cướp. Dẫu vậy Chúa Giêsu trong lịch sử con người, trong nghệ thuật, trong âm nhạc, Ngài được trình bày ca tụng là Vua. Và hằng năm Giáo hội Công giáo dành ngày Chúa nhật cuối trong năm phụng vụ kính mừng Chúa Giêsu là vua.

Vua Giêsu không có những đặc điểm như các vua cai trị quốc gia đất nước. Ngài cũng chẳng có điểm gì siêu việt nổi tiếng như các vua âm nhạc, vua thể thao...Nhưng Ngài đã hoàn tất nhiệm vụ cách khác thường cho con người.

Nhà thần học Dorothee Soelle đã có suy tư về Vua Giêsu như sau: Tôi cho rằng Giêsu Nazareth là người sống hạnh phúc nhất. Trong phúc âm thuật lại Ngài như một người luôn chiếu tỏa hạnh phúc ra chung quanh. Từ nơi Ngài phát tỏa sức mạnh bình an mang đến cho người khác hạnh phúc.!

Một người làm cho người khác hạnh phúc, một người tin tưởng người khác, người đó xứng đáng có nhân cách của một vị Vua.

Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, Ngài làm điều đó được. Sống gần gũi, tạo niềm tin tưởng và giúp đỡ con người, Chúa Giêsu đã chinh phục được trái tim tâm hồn con người. Ngài là Vua lòng con người.. Vị Vua đã trao tặng con người trái tim mình. Một vị Vua có một không hai, có đầy lòng tin tưởng vào bàn tay Thiên Chúa. Vị Vua làm cho con người hạnh phúc. Một vị Vua khác thường hơn các vua chúa trần gian khác. 

Cách thế sống là Vua của Chúa Giêsu rất khác biệt.

Thay vì thống trị người khác, Ngài giúp đỡ họ  thoát khỏi cảnh khó khăn đè nặng tâm hồn.

Thay vì tiếp đón qua những lễ nghi quan cách trang trọng, Ngài gần gũi thân cận với những người tội lội bị khinh chê bỏ rơi và cùng đồng bàn ăn với họ.

Thay vì chạy theo vẻ hoàng nhoáng bên ngoài, Ngài quay về với tâm hồn, cuộc sống sâu thẳm trong tâm hồn.   

Lm. Nguyễn ngọc Long

VỀ MỤC LỤC
NỢ LÒNG

     

Ông bà xưa dạy:

       "Đêm tháng Năm chưa nằm đã dậy,

        Ngày tháng Mười chưa cười đã tối."

 Thực tế đời mình, tôi cũng đã nghiệm thấy đúng thế. So với mười hai tháng của năm thì tháng Năm với tháng Mười quả có điểm đặc biệt thật rõ nét về sự dài ngắn của ngày đêm, hơn những tháng khác. Đó là: tháng Năm đêm ngắn ngày dài và tháng Mười thì ngày ngắn đêm dài.

Thuở chưa theo đạo, tôi vẫn biết tâm đắc về lời dạy nầy của ông bà xưa lắm! Vì hiểu ngoài việc ghi lại kinh nghiệm về thời gian dài ngắn của ngày đêm tức thuộc "vũ trụ quan", ông bà xưa còn gói ghém trong đấy bài học về "nhân sinh quan" để nhắn nhủ với mình.

Được theo đạo rồi, tôi càng biết tâm đắc hơn nữa lời dạy nầy. Bởi lẽ tháng Năm là tháng hoa Đức Mẹ và đầu tháng Mười thì lễ Kính Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu: tôi tha thiết yêu Đức Mẹ và cũng thiết tha yêu Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu nên cảm như có một sự dun rủi nhiệm mầu sao đấy cho ông bà xưa không kết những tháng khác để nói truyền kinh nghiệm cùng nhắn nhủ, mà kết tháng Năm với tháng Mười... (Cũng có lý do của việc tôi tha thiết yêu... Chả vì ba má tôi đi tập kết giao tôi cho ngoại nuôi nên tôi lớn lên thiếu vắng tình thương nhất là tình mẫu tử. Thì Đức Mẹ Maria với hình ảnh Mẹ đứng dang tay như để đón tôi vào lòng, khiến tôi cứ thích chạy đến với Mẹ luôn. Rồi quen ông xã có đạo được anh đưa viếng Dòng Kín (số 33 Cường Để, Sài Gòn) thấy tượng Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu tuyệt đẹp, đầy hoa hồng, nằm thanh thản cách chi nên tôi chỉ có muốn đi tu. Nhưng ngỏ lời thì anh bảo tôi đi tu là phạm tội giết người vì anh sẽ héo hon chết mất. Cho nên để kỷ niệm, sanh cháu gái đầu lòng tôi xin cho con được có tên Thánh kép: Marie Thérèse...)

Lại thêm đời tha hương sống tạm dung ở Mỹ - xứ sở của thời tiết quanh năm đủ cả bốn mùa - tôi càng thấy tâm đắc lời dạy nầy gấp vạn lần hơn: do nhờ mình được có thêm những hiểu biết cùng kinh nghiệm mới về tháng Năm với tháng Mười. Điều mà hoàn cảnh bên quê nhà nhất là việc tôi sống nơi vùng khí hậu quanh năm chỉ có hai mùa mưa nắng (tuổi nhỏ ở Bến Tre, lớn lên ở Sài Gòn) nên tôi đâu làm sao có cái kinh nghiệm đầy ý nghĩa của hai tháng nầy.

Tháng Năm ở Mỹ thuộc mùa Xuân và là tháng đã muôn hoa khoe sắc đẹp xinh mà khí hậu còn thật tuyệt vời. Tháng Năm ở Mỹ cũng là tháng của lễ hội: "Mother's Day" cho các bà mẹ và "mùa Prom" cho giới trẻ tiệc tùng mãn khóa, ra trường, bãi trường... Do đó sống ở Mỹ thì tháng Năm: tháng hoa Đức Mẹ tha hồ cho mình hái "hoa đời" muôn sắc đẹp tươi dâng kính Mẹ. Cũng như dễ dàng cho mình kiếm những "hoa lòng" dâng Mẹ qua việc nhín nhịn tiêu xài (lễ hội đương nhiên có tiêu xài ăn diện, sắm sửa...) để có dôi ra khoản tiền an ủi xứ nghèo người khổ; hoặc hãm bớt vui chơi giải trí (thời tiết quá đẹp và chậm tối thường mời gọi cái tôi thích hưởng thụ lao vào thưởng ngoạn) để có thời giờ đi đàng Thánh Giá chiêm ngắm Chúa Giêsu con Mẹ chịu nạn chịu chết cứu độ nhân trần, lần chuỗi Mân Côi dâng Mẹ kính yêu...

Tháng Mười ở Mỹ thì thuộc mùa Thu và là tháng của tiết trời gay lạnh với âm u mưa, không vàng lá rụng thì lá trên cành cũng bị đổi màu hầu hết: từ màu xanh của sự sống sang màu vàng đỏ của sự chết. Do vậy ngày ngắn của tháng Mười: gợi tôi thấm hiểu về sự ngắn ngủi của kiếp người nên phải tranh thủ sống sao kẻo "chưa cười đã tối". Đêm dài của tháng Mười, nhất là những đêm khó ngủ giúp tôi biết thấp thỏm lo âu về một cõi chết miên viễn, để thêm ý thức quãng ngày ngắn ngủi của kiếp người mình hãy đang được sống: thì phải sống cho có ý nghĩa và đáng sống. Chớ đừng sống hoài sống phí hoặc sống mà tội nặng lỗi dầy: vừa làm gương mù gương xấu cho những người thân quen và vừa để linh hồn mình bị mất đi ơn cứu độ... Cũng chính nhờ biết thấp thỏm lo âu ấy nên tôi thấy Giáo Hội đặt lễ mừng kính Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu - vị Thánh có quãng ngày sống ngắn ngủi vì lìa đời lúc mới 24 tuổi nhưng lại là vị Thánh tiến sĩ khai sáng con đường thơ ấu thiêng liêng và là Thánh Bổn Mạng của các xứ truyền giáo - vào ngày đầu tiên của tháng Mười đã vô cùng ý nghĩa còn quá ư là tuyệt! Và cuốn "MỘT TÂM HỒN" tự truyện về cuộc đời nên Thánh của Thánh Nữ đã đến với "sự lòng" tôi như một vị cứu tinh. Vì nếu tôi chịu học theo gương của Thánh Nữ đã sống thì đương nhiên tôi sẽ sống tốt đời đẹp đạo, đâu phải lo chi việc mình sống hoài sống phí, sống mà tội nặng lỗi dầy làm gương mù gương xấu và mất đi ơn cứu độ.

Nhưng, tiếc một điều là lúc được cuốn "MỘT TÂM HỒN" trong tay (ngày 10-10-1995) thì tôi hãy còn bị u tối về nhiều nỗi lắm (tôi đã có đề cập trong bài "Sống Thánh Giữa Đời", đăng trên Nguyệt San "Trái Tim Đức Mẹ" không nhớ rõ số 267 hay 268 của tháng 3 hay tháng 4/2000 vì tôi đã bị lạc mất số báo nầy) nên dẫu biết là "cứu tinh" đấy, mà tâm trí đâu có chịu đầu phục hoàn toàn để chuyển thành hành động! Do đó tôi mới mắc cái... nợ lòng! Giờ thì đã đến lúc tôi thấy phải nói ra cho dù có bị hổ ngươi đến thế nào miễn được chia sẻ, để lòng thanh thản, là tôi chẳng quản...

Cũng xin thưa, duyên may tôi có cuốn "MỘT TÂM HỒN" nhờ một chủng sinh đã bỏ tu (cậu cũng là bạn đọc các cuốn "truyện đời" của tôi) giới thiệu và cho biết ở nhà sách của tòa báo Nguyệt San "Trái Tim Đức Mẹ" có bán. Tôi đã xin mua và nhận được sách đúng vào ngày... Song Thập: 10-10-1995. Và cũng xin thưa lúc ấy tôi chưa đọc được Kinh Thánh. Vì hễ mở Kinh Thánh ra đọc là bị nhức đầu nên có thể nói ngoài cuốn báo "Trái Tim Đức Mẹ" tháng tháng tôi đọc để được học hiểu thêm về đạo, thì cuốn "MỘT TÂM HỒN" là cuốn sách "tu đức" duy nhất tôi có để "gối đầu giường". Nhưng tôi... ngu ngơ đâu chịu "gối"! Lý do để tôi không chịu "gối" vì khi ấy mình còn u tối lắm, nên cho rằng có quá nhiều cách nhìn, nếp nghĩ, lối xử sự trong ấy chỉ có những người đi tu làm bà sơ sống như thế là phải, chớ người sống đời hôn nhân như tôi mà theo thì thiệt thòi, không khéo còn bị cười rằng chí dại nữa là khác...

Vâng, xin được đan cử đoạn văn - cũng là món nợ lòng - khiến tôi cứ phải khắc khoải và ân hận suốt vì mình đã ngu ngơ không theo! Đấy, ở trang 219 và 220 cuốn "MỘT TÂM HỒN" (do Kim Thiếu dịch, Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ tái bản lần thứ hai ở Hoa Kỳ và có sửa chữa) Thánh Nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu có viết:

"... Ngày kia đang giờ giải trí, chị giữ bàn xoay có việc cần vào xin một người ra giúp chị. Đã sẵn lòng ước ao được đi làm giúp, lại nghe chị gọi tên mình, con mừng quá. Nhưng con thấy chị bên con cũng thích đi, nên xếp việc đang làm lại cách chậm chạp để chị kia xếp việc mình xong mà đi trước con. Chị giữ bàn xoay thấy con thu xếp chậm chạp đã cười và nói: A! Tôi biết lắm! Chị chẳng muốn thêm hạt ngọc vào mũ triều thiên chị, chị làm rất uể oải.

Cả nhà đều tưởng là con ngại không muốn đi làm giúp chị.

Con không thể nói hết việc nhỏ mọn nầy đã giúp con tấn bộ và trở nên người khoan dung độ lượng dường nào! Nhân đó mà còn biết bỏ tính phô trương cậy mình mỗi khi được ai đoán hay đoán khéo cho con, vì như việc nhỏ mọn về nhân đức mà con làm đây đã có thể coi là việc trái, thì những việc trái, người ta cũng có thể nhầm mà cho là việc phải, việc nhân đức; khi ấy con lặp lại lời Thánh Phaolô rằng: "Tôi chẳng lo sự thiên hạ đoán xét tôi; chính tôi cũng chẳng dám đoán xét mình. Đấng đoán xét tôi là Chúa (1 Cor IV, 3-4)

Vâng, chính Đức Chúa Giêsu là Đấng đoán xét việc con. Con mong Chúa đoán xét con cách nhân từ hay đừng đoán xét cách nào hết, bởi vậy con hàng giè giữ chẳng dám đoán xét ai, một chỉ tưởng sự lành cho mọi người theo lời Chúa phán: "Bay đừng đoán xét ai thì bay sẽ chẳng phải Chúa đoán xét" (Luc VI, 37)

Thì đấy, ý của Thánh Nữ trình bày tỏ tường đâu đó, đọc là hiểu chín rõ mười. Hiểu Thánh Nữ sao mà tế nhị, tốt bụng, khéo nhường khéo nhịn và lành thánh đến thế! Cũng như hiểu Thánh Nữ giàu tâm tình yêu thương và tín thác nên đặt để mọi sự ở Đức Chúa Giêsu Kitô: nguồn mạch của yêu thương và là nguồn sức mạnh làm tiêu tan mọi oan uổng cùng sự ác trên thế gian nầy.

Phần tôi lúc ấy tuy hiểu thế, nhưng thú thật là thấy phải... "kính nhi viễn chi" thôi! Chớ theo thì bị... đụng chạm quyền lợi lắm! Nhất là nghề tôi "ôm" cái tiệm làm "Hair & Nail" mà nhìn quanh chẳng có lấy một thợ trung thành! Cho nên nếu theo cách của Thánh Nữ thì hễ biết thợ muốn làm người khách nào cứ nhường cho làm, rồi lúc bị thợ lấy hết khách dẫn đi, khách đâu cho mình trả tiền tiệm?! Mặt khác nghề nầy cả chủ lẫn thợ đều cùng mong có khách để làm và hầu hết là làm ăn chia nên chủ được làm nhiều thì đỡ bị chia. Do đó nếu tiệm may mắn đắt khách, thợ muốn làm cứ nhường cho làm, chia rồi chủ vẫn... có ăn. Còn tiệm rủi ro vắng khách, thợ muốn làm cứ nhường cho làm là khó chấp nhận lắm! Bởi vậy Thánh Nữ dạy thì cám ơn Thánh Nữ, tôi vẫn cách của tôi là có nhường mà cũng có làm giành. Nhiều khi đã làm giành nhưng "sĩ diện" nên tôi còn tự bào chữa là người khách đó muốn mình làm!!! Chớ không như Thánh Nữ đã nhường còn bị hiểu oan, nói sai, đánh giá không đúng... vẫn cứ nhịn lời nín tiếng chẳng minh oan cũng chẳng buồn phiền, chẳng màng chi sĩ diện... Và tôi như thế, kiếm cho có được đồng tiền để làm chi? Để cũng chỉ cho gia đình mình sống ở mức tạm đủ, còn thì hướng về Việt Nam làm các việc vì yêu Chúa. Cụ thể là giúp nuôi ơn gọi cho Giáo Hội với giúp trẻ nghèo ăn học. Có thể nói tôi thiết tha lắm với việc nầy vì sẵn chịu khó làm và nhín nhịn để nuôi con mình ăn học thì cũng nên "gồng" thêm để giúp con người khác...

Chúa thương cho tôi được rước lấy bao buồn đau liên tiếp quanh việc mình thiết tha nầy! Có trẻ nghèo trải mười mấy năm tôi giúp cho ăn học thì lúc sắp tốt nghiệp đại học còn "dựng đứng" ra câu chuyện mẹ đau vô bệnh viện rồi mẹ chết và mẹ sống lại để vòi tiền, mà tôi lại ngây thơ tưởng thật "kéo" luôn chị bạn cùng góp vào để giúp! Có ơn gọi đã học xong đâu đấy chỉ còn chờ ngày chịu chức thì vướng chuyện tình cảm và có nguy cơ giũ áo! Có ơn gọi đã được thụ phong linh mục thì bị đồng tiền là cho tha hóa...

Cạnh tuổi đời ngày một thêm để tôi được hiểu đạo hơn và yêu Chúa hơn, trưởng thành hơn trong đức tin, đức cậy, đức ái nên tôi vốn đã biết nhìn ra cái sai của mình để ray rức lắm với món "nợ lòng" cùng Thánh Nữ! Thêm trước những việc buồn đau liên tiếp ấy giúp tôi biết nhìn lại để tự trách mình và thức tỉnh hơn. Giá như ngay từ lúc tiếp được lời dạy của Thánh Nữ, tôi cứ tâm phục ý phục vâng theo thì hay biết mấy: vừa được nhàn thân vừa không vướng phải nợ lòng!

Thôi thì ai cũng là con cái Chúa và làm việc nào cho ai cũng là làm cho Chúa. Từ nay còn được "ôm" cái tiệm đến bao giờ thì tôi chỉ có muốn mình phải học ở gương Thánh Nữ: sống trong nhường nhịn yêu thương nhau và tuyệt đối tín thác ở Thiên Chúa TÌNH YÊU.

Tuần rồi nhân ghé tiệm cô bạn, thấy cô chưa làm xong khách mà có khách bước vô thì nháy mắt bảo chờ mình, rồi xoay vào nói với người thợ (đang từ trong bước ra vì ế ẩm phải ngồi coi ti-vi suốt, nên muốn được đưa khách vào làm) rằng: "Bà khách muốn tôi..."

Cô bạn nầy, tôi biết đã từng có tậu nhà bên Việt Nam nhưng tậu phải chỗ bị lũ lụt cuốn phăng đi! Đổ tiền của về giúp cho em cháu làm ăn thì thành công đâu không thấy, chỉ thấy than là bị thâm vốn, vỡ nợ... nên cứ réo cô hoài...

Cho nên trước việc nầy, tôi đặt nghi vấn với cô có bao giờ nghĩ rằng đồng tiền kiếm được cách thiếu yêu thương (vì vừa làm giành với thợ vừa để khách phải chờ) là sẽ không được Thiên Chúa chúc phúc khi dùng chăng, trong khi tội lỗi thì mình vẫn phải bị mang?...

 Hoàng Thị Đáo Tiệp     California,

VỀ MỤC LỤC

ÁP DỤNG GIÁO HUẤN CỦA HỘI THÁNH VÀO VIỆC ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CHO CÁC CHỦNG SINH

 

Tác phẩm ĐÀO TẠO VÀ TỰ ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CỦA CÁC LINH MỤC TƯƠNG LAI TRONG BỐI CẢNH VIỆT NAM NGÀY NAY

Nguyên bản tiếng Anh   Lm. Micae-Phaolô TRẦN MINH HUY

Bản dịch Việt ngữ  Lm. Vincentê Trần Minh Thực, Lm. GB. Nguyễn văn Hào

 

CHƯƠNG VI     

ÁP DỤNG GIÁO HUẤN CỦA HỘI THÁNH VÀO VIỆC

ĐÀO TẠO THIÊNG LIÊNG CHO CÁC CHỦNG SINH

 

A.  Viển Ảnh Chức Linh Mục Áp Dụng Vào Việc Đào Tạo Thiêng Liêng

Đâu là mẫu linh mục mà người ta nhắm đào tạo cho Hội Thánh và cho thế giới ngày nay? Chủng sinh được uốn nắn theo mẫu nào? Câu trả lời phải vừa thực tiễn, vừa lý tưởng, vì linh mục phải nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô, như là Đầu và Mục Tử của Hội Thánh,133 kiểu mẫu duy nhất của các linh mục, đáp ứng với thực tế đa dạng của Hội Thánh và thế giới, hôm nay và ngày mai.

Kiểu mẫu lý thuyết là nền tảng cho khoa sư phạm hiện nay về việc đào tạo linh mục, nhằm làm cho chủng sinh trở thành Thầy Dạy Lời Chúa, Thừa Tác Viên Bí Tích, và Lãnh Đạo Cộng Đoàn,134 như Huấn Quyền Hội Thánh gợi hứng và trình bày: một con người vừa thấm nhuần thiêng liêng vừa thấm nhuần nhân bản, và kiên quyết dấn thân trong ơn gọi linh mục, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Ta có thể tóm lược những quan điểm của Công Đồng Vaticanô II về chức linh mục: Liên hệ với Giám Mục như  người cộng sự, linh mục phải nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu và làm chứng cho Lời. Đời sống thiêng liêng của linh mục chính là chu toàn thừa tác vụ của mình, như là người phục vụ, chứ không phải dùng quyền mà thống trị trên cộng đoàn. Ngài hành động nhân danh và con người của Chúa Kitô để xây dựng và đảm bảo nguồn gốc tông truyền của Cộng Đoàn Kitô giáo, như là mục tử và người chủ toạ cộng đoàn.

Các linh mục hôm nay phải nhìn nhận và thăng tiến phẩm giá, việc đồng trách nhiệm và các đặc sủng của giáo dân trong tinh thần bình đẳng, tương trợ, hài hoà và liên đới với giáo dân, để họ tự do trong lĩnh vực và vai trò riêng của họ. Cuối cùng, vì sự thống nhất và hoà giải của cộng đoàn tín hữu, linh mục không nên trực tiếp tham gia các tổ chức và đảng phái chính trị.135 Mẫu linh mục toàn diện như thế phải được đào tạo một cách hài hoà cùng với việc tích cực tự đào tạo của mỗi ứng viên.

      1.    Linh Mục, Người Được Chúa Thánh Thần Thánh Hiến, Chiếm Hữu và Hướng Dẫn

Trước hết, linh mục phải tự để cho Chúa Thánh Thần chiếm hữu (Lc 1,15.41.67; 4,18-19; Is 61,1-2; Cv 2,4; 4,8) và hướng dẫn (Mt 4,1; Mc 1,12; Lc 4,1.11). Vì Chúa Thánh Thần là Đấng mà linh mục đã nhận lãnh từ khi chịu phép rửa tội và trở thành đền thờ của Ngài (Mc 1,8; Lc 3,16; Ga 1,33;3,5; Cv 1,5), đặc biệt từ khi chịu chức thánh với quyền tha tội (Ga 20,22), bằng cách hành động nhân danh và con người của Chúa Kitô.

Được Chúa Cha và Chúa Giêsu sai đến, Thần Khí Sự Thật sẽ dạy linh mục mọi điều và nhắc nhở ngài tất cả những gì Chúa Giêsu đã nói (Ga 14,26). Cũng chính Thần Khí đó sẽ dạy linh mục điều ngài phải nói (lc 12,12) và sẽ nói thay cho ngài (Mt 10,20; Mc13,11). Nghĩa là linh mục không chỉ chu toàn đời sống riêng mình, nhưng còn thừa tác vụ linh mục, nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần qua bảy ơn136 của Ngài (khôn ngoan, trí hiểu, thông biết, can đảm, tư vấn, đạo đức và kính sợ Chúa). Cách ứng xử thích đáng của linh mục là luôn trung thành và “nghe theo những linh hứng của Chúa Thánh Thần,”137 để sinh hoa trái và mang hoa trái của Chúa Thánh Thần đến cho người khác (bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, quảng đại, dịu dàng, trung tín, khiêm nhường, tiết độ và trong trắng). Chúa Thánh Thần luôn họat động trong công trình sáng tạo và trong lịch sử nhân loại, trong cuộc sống và sứ vụ của Chúa Giêsu, trong Hội Thánh, Nhiệm Thể Chúa Kitô, đặc biệt là trong Hội Thánh tại Á Châu.138

      2.    Linh Mục, Con Người Đạo Đức và Cầu Nguyện

Linh mục phải thực sự là một con người có đời sống cầu nguyện và thiêng liêng sâu xa, nghĩa là có mối hiệp thông cá nhân sâu xa với Chúa Cha qua Chúa Con, nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần.139 Điều này được diễn tả trong mối tương quan với người khác, linh mục nhìn bằng ánh mắt của Chúa và yêu thương bằng trái tim của Chúa.140

Đời sống cầu nguyện của linh mục khiến ngài có khả năng nhận thức được chính mình và sự tuỳ thuộc của ngài, thậm chí cả chức linh mục của ngài, vào Chúa (Dt 5,4-6); nhận thức được sự hiện diện của Thiên Chúa và công trình của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống hằng ngày nhờ sự tự hiến và phó dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa, theo gương Chúa Giêsu Kitô.

Lời cầu nguyện của linh mục là lời cầu nguyện trong lòng Hội Thánh, đặc biệt là lời cầu nguyện thuộc Hội Thánh và mang tính bí tích trong Phụng Vụ, mà suối nguồn và chóp đỉnh là Thánh Thể.141 Lời cầu nguyện này của linh mục được lồng vào trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: Linh mục cầu nguyện nhân danh Chúa Giêsu và cầu nguyện với Chúa Giêsu và cầu nguyện lên Chúa Giêsu.

Đời sống cầu nguyện của linh mục giúp ngài tìm được Chúa Giêsu nơi người khác, đặc biệt là người đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, bị loại trừ, bị áp bức và bất lực, để yêu thương họ và phục vụ họ như Chúa Giêsu đã dạy và đã thực hành. “Người ta mong chờ điều này nơi linh mục: Họ thật sự nhìn ngài như là một người của Thiên Chúa, một người có kinh nghiệm về Thiên Chúa. Một điều người ta mong muốn linh mục phải làm là dạy họ cách cầu nguyện.”142     

         3.    Linh Mục, Con Người của Linh Thánh

Linh mục tương lai phải nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu và được kêu gọi tiếp nối sứ mệnh của Chúa Giêsu, Đấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến thế gian (Ga 10,36); Đấng được Chúa Thánh Thần xức dầu, thánh hiến và chiếm hữu (Lc 4,18-19). Do vậy, được kêu gọi nên thánh thiện,143 ứng viên linh mục phải được đào tạo và tự đào tạo để trở thành con người cua linh thánh, vì linh mục là người của Thiên Chúa, “là người thuộc về Thiên Chúa và làm cho con người nghĩ đến Thiên Chúa, là một người sẽ giúp con người hướng về Thiên Chúa, đi lên với Thiên Chúa.”144 Nhân tố “linh thánh” trong các tôn giáo truyền thống Á Châu là rất quan trọng và khả tín đối với sứ mệnh của Hội Thánh tại Việt Nam. Cùng một đường hướng với Pastores Dabo Vobis, Ecclesia in Asia dạy rằng con người Á Châu cần thấy hàng giáo sĩ như là “những người mà lòng trí luôn đặt để trong những thực tại sâu xa thuộc Thần Khí.”145

Các tăng ni Phật giáo và Lão giáo có một kỷ luật tinh thần, nghiêng về chiêm niệm hơn là hoạt động, nhấn mạnh đến việc tự chế, quên mình và siêu thoát khỏi thế giới, nhằm chống lại những cám dỗ và say mê tìm sự giải thoát. Thực tế này “thách thức các linh mục Công giáo đào sâu đời sống thiêng liêng của mình; nếu không, chứng từ của họ trong xã hội Việt Nam sẽ thiếu thuyết phục.”146

Chúng ta nên học tập họ và tăng cường đời sống nội tâm mang tính truyền giáo của mình. Thực ra, các linh mục có thể học hỏi cách sống của các tôn giáo đó như là cánh cửa dẫn tới Thần Linh và là một phương tiện hiệp thông với Đấng Thánh Thiêng.147 Nếu các ngài hân hoan và trung thành sống lối sống và các nhân đức Tin Mừng (vâng phục, nghèo khó và trong sạch), chứng từ và sứ vụ của họ sẽ rất hữu hiệu. “Điều này là xác thực trong bối cảnh Á Châu, nơi mà con người thường bị thuyết phục bởi đời sống thánh thiện hơn là lý lẽ trí thức.”148 Trong Hội Thánh, linh mục có mọi phương tiện thích hợp,149 cả tự nhiên lẫn siêu nhiên, để trở thành một con người linh thánh. Điều quan trọng nhất là thực hành các phương tiện ấy trong đời sống hằng ngày.     

      4. Linh Mục, Người Có Nền Tảng Thánh Kinh Vững Chắc

Linh mục sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian, mà thuộc về Chúa Kitô và Hội Thánh Ngài. Linh mục được “kêu gọi để biến đổi trần gian, chứ không để bị trần gian biến đổi.”150 Thế nên linh mục phải là một con người của Đức Tin với một nền tảng Thánh Kinh vững chắc cho cuộc sống và sứ vụ của mình.151

Mọi khủng hoảng đều do thiếu đức tin. Quả thế, linh mục cũng có thể bị ảnh hưởng bởi nhân tố văn hoá và tâm thức xã hội do những cơ cấu chính trị và tôn giáo tạo nên. Ví dụ, chịu ảnh hưởng từ Khổng giáo, chế độ phong kiến, thực dân, các cơ cấu gia trưởng và phẩm trật trong Hội Thánh thời tiền Vaticanô II, linh mục Việt Nam đôi khi phải chịu đựng những thử thách và đấu tranh trong việc vâng phục với ba loại tùng phục (quyền phục, lý phục, và tâm phục).

Nhưng với đức tin mạnh mẽ ăn rễ sâu trên nền tảng Thánh Kinh vững chắc đặt trọng tâm nơi Chúa Giêsu, nơi Tin Mừng, và nơi Hội Thánh, với lời cầu nguyện và sự biện phân, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, ngài sẽ tự nguyện vâng phục một cách siêu nhiên những vị lãnh đạo và các cơ cấu Hội Thánh, không phải với tư cách là cơ cấu hay hữu thể con người, nhưng là ý Chúa nơi và qua những cơ cấu hay con người đó.

Việc đào tạo thiêng liêng cho các chủng sinh Việt Nam cần để tâm tới những ảnh hưởng về văn hoá và những yếu đuối của con người: Siêu nhiên ở trong tự nhiên để nâng lên và hoàn thiện tự nhiên. Nhưng ta cũng phải nhẫn nại lưu ý tới trình độ trưởng thành thiêng liêng và nhân bản của các chủng sinh: “Tôi đã cho anh em uống sữa chứ không cho dùng thức ăn cứng, vì anh em chưa chịu nổi. Ngay bây giờ anh em cũng vẫn còn chưa chịu nổi” (1 Cr 3,2).

      5. Linh Mục, Người Mở Ra cho Tình Hiệp Thông

Ta không thể định nghĩa căn tính và sứ vụ linh mục bên ngoài mối hiệp thông bắt nguồn từ Chúa Ba Ngôi và nơi Chúa Ba Ngôi. Vaticanô II nhắc nhở chúng ta rằng”việc đào tạo cần giúp chủng sinh sống sự hiệp nhất liên lỉ và mật thiết với Thiên Chúa Cha qua Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô, và trong Chúa Thánh Thần.”152

Linh mục phải là người của Hội Thánh, là người sẽ sống mối hiệp thông trọn vẹn của Hội Thánh qua mối hiệp thông phẩm trật với Đức Giáo Hoàng, với hàng Giám Mục, đặc biệt là với Giám Mục Bản Quyền của mình trong tâm tình vâng phục hiếu thảo;153 tăng triển trong và cùng với hàng linh mục trong tình hiệp nhất với Giám Mục của mình,154 với giáo dân và mọi người sống đời thánh hiến, nghĩa là với toàn thể Dân Chúa, để xây dựng toàn bộ Nhiệm Thể Chúa Kitô (Ep 4,12).

Đây là lời cầu nguyện tha thiết của Đức Gioan Phaolô II cho những thừa tác viên chức thánh thuộc Hội Thánh tại Á Châu: “sống và làm việc trong tinh thần hiệp thông và hợp tác với hàng Giám Mục và mọi tín hữu, để làm chứng cho tình yêu.”155 Với tư cách là con người của hiệp thông, linh mục phải sống và xây dựng mối hiệp thông của toàn thể nhân loại và thế giới được tạo thành. Thế giới được tạo thành vẫn đang đợi chờ Nước Thiên Chúa và tha thiết trông mong ngày giải thoát toàn thể vũ trụ (Rm 8,18-23). “Mối hiệp thông và sứ vụ luôn đi đôi với nhau”156 và kết nối với nhau không thể tách lìa.

      6. Linh Mục, Người Dấn Thân Truyền Giáo157

Công Đồng Vaticanô II giúp Hội Thánh tái khám phá ra căn tính truyền giáo của mình. Quả thế, Truyền giáo thuộc về chính bản chất của Hội Thánh,158 là cảm thức và ý nghĩa, là nguồn gốc và mục đích của Hội Thánh.159 Bởi thế, tự bản chất linh mục là nhà thừa sai và phải luôn luôn thiết tha với việc truyền giáo. Nếu không, ngài không còn là một linh mục nữa và đánh mất căn tính của mình là thừa tác viên của Lời Chúa.

Linh mục phải coi việc loan báo Tin Mừng là ưu tiên số một, thậm chí còn hơn cả việc thờ phượng mang tính bí tích và việc chăm sóc mục vụ:160 “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9,16). Đấng Cứu Độ đã được sinh ra ở Á Châu, nhưng Kitô giáo ngày nay lại là nhóm thiểu số tuyệt đối nơi lục địa lớn nhất trái đất với gần hai phần ba dân số nhân loại.161 Vì vậy, linh mục phải rất lưu tâm đến lời kêu gọi khẩn thiết phải tiếp tục công việc truyền giáo của Chúa Giêsu cho đồng bào mình, với lòng khát khao cháy bỏng là làm cho mọi người biết và yêu mến Chúa Kitô.

Vaticanô II mở rộng nhãn quan chúng ta về Nước Thiên Chúa và thôi thúc chúng ta sống sứ mệnh Truyền giáo, với lòng tin tưởng Chúa Thánh Thần đã “khơi dậy một tinh thần truyền giáo thực sự trong lòng nhiều linh mục và tín hữu.”162 Và Thượng Hội Đồng Giám Mục Đặc Biệt của Á Châu và Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu chỉ ra con đường mới mẻ trong sự hiện diện của Hội Thánh với ba chiều kích đối thoại. Những hoạt động của Hội Thánh địa phương tại Việt Nam trong dịp cử hành 470 năm loan báo Tin Mừng (1533-2004) là lời nhắc nhở quí giá và lời mời gọi khẩn thiết đối với việc truyền giáo: việc truyền giáo của người Châu Á cho người Châu Á.     

      7. Linh Mục, Người của Đối Thoại

Con đường đối thoại163 bắt nguồn và khởi đầu từ Thiên Chúa, Đấng luôn duy trì cuộc đối thoại với con người, đặc biệt với người nghèo, người bị áp bức, và người bị ruồng bỏ. Với tư cách là sứ giả của Thiên Chúa và thừa tác viên của Hội Thánh, linh mục phải là con người của đối thoại.

Đối với Á Châu, cái nôi của nhiều truyền thống văn hoá, những tôn giáo lớn và đa số người nghèo trên thế giới, sứ mệnh này lại càng khẩn thiết và thích hợp hơn. Vì thế, các chủng sinh phải được huấn luyện kỹ càng về các kỹnăng đối thoại. Chúng ta không chỉ cần ba cuộc đối thoại mà Liên Hiệp Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã chỉ ra như là cách thế hiện diện và thi hành sứ mệnh truyền giáo (đối thoại với các nền văn hóa, với các tôn giáo và với người nghèo), mà trong bối cảnh riêng biệt ở Việt Nam, chúng ta còn cần cuộc đối thoại thứ tư, đối thoại với người cộng sản.164 Nhưng không được xao nhãng cuộc đối thoại đại kết trong lòng Hội Thánh.165

      8. Linh Mục, Người của Truyền Thông Xã Hội

Ngày nay, không ai có thể phủ nhận vai trò quan trọng và ảnh hưởng ghê gớm của phương tiện truyền thông đại chúng, những ích lợi và tác động tai hại của nó trong đời sống con người, “cách riêng thế hệ trẻ đang lớn lên trong một thế giới bị lệ thuộc vào phương tiện thông tin đại chúng.”166

Linh mục phải hiểu cách sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội hiện đại như là những dụng cụ hiệu quả để sống hiệp thông bằng lòng và trí với toàn thể Hội Thánh, để cập nhật kiến thức thần học và mục vụ của mình, cũng như giáo huấn luân lý và xã hội của Hội Thánh, để thông truyền sứ điệp Tin Mừng và gia tăng đời sống thiêng liêng. Ở thời đại chúng ta, linh mục phải học cách sử dụng đúng đắn phương tiện truyền thông, dĩ nhiên không phải như là chuyên gia và chuyên nghiệp trong lãnh vực này, để sử dụng và hướng dẫn người khác cách sử dụng phương tiện thông tin một cách đúng đắn trong đời sống hằng ngày.

Vì thế, Đức Gioan Phaolô II khuyên nhủ rằng giáo dục về truyền thông cần phải là một mảng ngày càng gia tăng trong việc đào tạo linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên, các giáo dân chuyên nghiệp, sinh viên…, theo chỉ dẫn của Huấn Thị Mục Vụ Aetatis Novae, với sự chú ý thích hợp đối với những cảnh huống đang phổ biến ở Á Châu.”167

      9. Linh Mục, Người Nhạy Bén với Đổi Thay Xã Hội

Mọi thứ đang đổi thay và tiếp tục đổi thay nhanh chóng. Linh mục phải là con người liên kết cách hài hoà với những hoàn cảnh thay đổi hiện tại trên thế giới. Ngài phải luôn sẵn sàng nhậy cảm đọc được những dấu chỉ thời đại, đón nhận những đổi thay mới mẻ và tự thích ứng bằng lòng can đảm và sự khôn ngoan sáng suốt với những dấu vết của Chúa Thánh Thần, Đấng đổi mới mọi sự (Kh 21,5).

Vì thế, Công Đồng Vaticanô II khích lệ các linh mục hoàn thiện một cách phù hợp và không gián đoạn kiến thức về những sự thánh và những công việc của con người để có thể trao đổi đàm luận với những người đương thời cho đúng lúc đúng chỗ hơn.168 Sự nhậy bén sẽ giúp linh mục hiểu rõ ràng hơn những nhu cầu của con người, nhận thức được những vấn nạn không thành lời của họ, đáp lại những yêu cầu của họ, chia sẻ những niềm hy vọng, mong đợi, niềm vui và gánh nặng của họ.169

Sự nhậy bén này cũng gợi lên và hướng dẫn những đổi thay của trí não và con tim hướng tới sự hoán cải liên tục về với Thiên Chúa và người khác, bằng cách “để mọi việc cứ qua đi và để Chúa lo liệu.” Thiên Chúa luôn canh tân lời kêu gọi của Ngài qua Tin Mừng, qua các dấu chỉ thời đại, qua những con người, những biến cố và những thăng trầm của đời sống hằng ngày, thì linh mục và tất cả những ai theo Chúa Giêsu cũng đều phải luôn canh tân lời đáp trả cho phù hợp. Theo nghĩa này, linh mục trở nên một người khiêm tốn phục vụ bất cứ việc gì, bất cứ ở đâu, bất cứ khi nào và theo bất cứ cách nào mà con người cần ngài.

      10.   Linh Mục, Người Của Tác Vụ Ngôn Sứ

Sau hết, linh mục bị buộc phải sống tác vụ ngôn sứ. Quả thực, “Thiên Chúa quá yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình cho thế gian” và Con Một Ngài, Chúa Giêsu Nadarét là mặc khải liên tục của tình yêu tha thiết Thiên Chúa dành cho con người. Để thi hành sứ vụ ngôn sứ của mình, Chúa Giêsu rao giảng Bát Phúc, người con  hoang đàng, người Samaria Tốt Lành; Ngài đến với những người tội lỗi, gái điếm, ngoại tình, bị ruồng bỏ, những người nghèo, những người ngoài lề xã hội và bị loại bỏ; dù Ngài bị phê phán là kẻ điên rồ và phản động.

Nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, linh mục phải thực thi tác vụ ngôn sứ của mình, với hết tấm lòng, hết linh hồn và hết sức lực mình, trong hai nhiệm vụ quan trọng này:

* Loan báo và sống tình yêu đam mê hai mặt của Chúa Giêsu: đam mê Thiên Chúa và Nước Thiên Chúa, và đam mê con người;170

* Tố cáo thói giả hình, bất công, áp bức, v.v… dù phải trả giá bằng thập giá và cái chết (Đức Cha Oscar Romero và mục sư Martin Luther King là những nhân chứng thời hiện đại).

Vâng, ở đây và bây giờ, linh mục có cơ hội để tuyên bố và giới thiệu cho thế giới và Dân Chúa sứ điệp yêu thương của Ngài. Đồng thời, linh mục phải nhắc nhở con người dấn thân vào mối tương quan giao ước với Thiên Chúa. Hơn nữa, dù đó là nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, ngài cũng phải đóng vai trò chỉnh sửa trong Giáo Hội cũng như trong Xã Hội, bất cứ khi nào có quá nhiều áp bức trong các hệ thống xã hội, chính trị, kinh tế và tôn giáo.171

 

B. Linh Đạo và Thần Học về Chức Linh Mục

       1. Linh Đạo về Chức Linh Mục

Trước hết, nhấn mạnh đến phẩm chất của thừa tác vụ linh mục là đòi hỏi tính trung thực và trưởng thành của linh đạo của đời sống linh mục, qua căn tính, sự thân mật, tính siêu việt và tính toàn diện của linh mục. Linh đạo qui về kinh nghiệm nhân loại liên kết với cái tuyệt đối, trong cả hai, vừa thực tại vừa mầu nhiệm. Linh đạo vén mở cuộc sống của đương sự như là mối tương quan trong ân sủng với Thiên Chúa và người khác trong Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần.

Có mối liên hệ qua lại và tuỳ thuộc lẫn nhau giữa tác vụ và đời sống của linh mục: cả hai, cầu nguyện và rao giảng đều là nền tảng của linh đạo linh mục giáo phận. Chúng là hình thức và cơ cấu của đời sống linh mục trong ân sủng, bám rễ sâu trong đời sống đức tin / cầu nguyện và sự luyện tập thừa tác vụ linh mục, như là tôi tớ của Dân Chúa và Nước Thiên Chúa.

Điều đó có nghĩa là tác vụ của linh mục mang tính  cộng đồng hơn, trong một Hội Thánh như là một cộng đoàn lấy con người làm trung tâm, và cộng đoàn ấy làm cho đời sống thiêng liêng của linh mục được lớn lên: khi linh mục giảng dạy, ngài được dạy dỗ; khi khuyên bảo, ngài được khuyên bảo; khi thăm viếng người bệnh, con bệnh là chính ngài được nâng dậy; khi an ủi người đau buồn, ngài tìm thấy sự an ủi; khi phục vụ người nghèo, sự nghèo nàn trong linh hồn ngài tìm được sự nâng đỡ; khi hướng dẫn người khác, ngài tìm được sự hướng dẫn và chỉ đạo; khi chủ toạ Thánh Thể, tinh thần ngài được biến đổi và canh tân; khi cầu nguyện, ngài tiếp xúc với những hoạt động kín đáo của ân sủng.172

Theo nghĩa này, linh đạo của linh mục giáo phận có bốn chiều hướng:

* Chiều hướng Hội Thánh: bao gồm cảm thức Hội Thánh và sự dấn thân cho việc tăng trưởng cộng đoàn, với nhiều dạng canh tân (chia sẻ niềm tin, nhân chứng bác ái chia sẻ cho nhau, cầu nguyện và các nhóm đặc sủng, đồng trách nhiệm, liên đới, đối thoại, hiểu biết lẫn nhau);

* Chiều hướng nhập thể: đối thoại và thúc đẩy một nhận thức tích cực về thế giới và một sự phối hợp cái thiêng liêng và cái trần tục, để biến đổi và thánh hiến thế giới cho Thiên Chúa trong Chúa Kitô;

* Chiều hướng nhắm đến phục vụ trần gian: xem việc phục vụ trần gian như một phần không thể thiếu của linh đạo, và định hướng phục vụ trở nên cam kết sâu sắc hơn trong chiều kích nhập thể của Hội Thánh phục vụ;173

* Chiều hướng giải phóng: liên kết với việc phục vụ trần gian và đáp lại tiếng kêu xin cuộc sống dồi dào, trong viễn cảnh sinh thái học. Chiều hướng này lại tự biểu lộ qua ba cách:

* qua việc chữa lành bằng một thái độ và lối sống chia sẻ đời sống để giúp người thiếu thốn;

* qua một cuộc chiến mang tính ngôn sứ chống lại những bất công của cơ cấu xã hội, dù là dân sự hay thuộc về giáo hội;

* qua việc phát triển những thái độ mới có tính sáng tạo và hy vọng nhằm đưa ra những giải pháp mới mẻ và sáng tạo.174

      2. Thần Học về Chức Linh Mục

            1) Theo thư gửi tín hữu Do Thái, Chúa Kitô là căn nguyên của mọi chức linh mục. Linh mục nhận được quyền hành trực tiếp từ Chúa Kitô và phải trung thành với Chúa Kitô, chứ không phải với cơ chế;

            2) Chức linh mục của Chúa Giêsu được chia sẻ trong toàn thể Hội Thánh, với chức linh mục cộng đồng, được lãnh nhận khi chịu phép rửa của mọi tín hữu. Tác vụ có chức thánh xuất phát từ cộng đoàn nguyên thuỷ gồm mười hai môn đệ của Chúa Giêsu, nơi mà cả Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần cùng trực tiếp hoạt động. Vậy có sự trao đổi qua lại giữa cộng đoàn và thừa tác vụ: Không có thừa tác vụ nào tồn tại bên ngoài cộng đoàn;

            3) Chức linh mục là để cho cộng đoàn: Chúa Giêsu lập chức linh mục không chỉ trong Bữa Tiệc Ly, nhưng trải qua suốt cuộc đời công khai của Ngài. Ngài kêu gọi các môn đệ và mong muốn họ tiếp nối công việc và sứ vụ của Ngài;

            4) Hội Thánh không bao giờ được hoàn thành hay được xây dựng đầy đủ, nhưng luôn được Chúa Thánh Thần uốn nắn thành một mối hiệp thông của những con người. Sự tràn đầy Thần Khí được biểu lộ trong mọi ân huệ mà các thành viên nhận được;

            5) Tác vụ linh mục là một lời kêu gọi và lời đáp trả lại lời mời gọi này. Việc chấp nhận ý Chúa thiết lập nên tác vụ và mối tương quan cá nhân của linh mục với Chúa Giêsu;

            6) Thừa tác vụ linh mục là thừa tác vụ ngôn sứ và có thể nói linh mục được kêu gọi để điều khiển một cộng đoàn ngôn sứ, với hai vai trò chính là rao giảng Lời Chúa và cử hành Thánh Thể; và cau cùng

            7) Phận vụ của linh mục là đại diện và hành động nhân danh Chúa Giêsu, và linh mục phải luôn là người đại diện của Ngài: không phải để được phục vụ nhưng phục vụ và hiến trao mạng sống mình cho người khác.175

 

C.    Hình Ảnh và Căn Tính của Linh Mục

Việc Đào Tạo Thiêng Liêng “đòi hỏi toàn bộ con người phải dấn thân”176 và làm cho người trẻ sẵn lòng trở thành linh mục nên “một hình ảnh sống động của Chúa Giêsu Kitô.”177 Nghĩa là, chủng sinh sẽ càng ngày càng được đào tạo nhiều hơn để nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô Linh Mục và Mục Tử Nhân Lành178 đối với Dân Chúa.

Vậy việc đào tạo thiêng liêng cung cấp cho linh mục tương lai năm yếu tố:

* một sự hiệp thông sâu sắc với Chúa Giêsu Kitô;

* một sự tuân phục hoàn toàn theo Chúa Thánh Thần;

* một thái độ hiếu thảo đối với Chúa Cha;

* một lòng gắn bó tin tưởng với Hội Thánh;

* và một lối sống ăn rễ sâu từ kinh nghiệm về Thập Giá.

Chúng ta có thể khai triển những cấu tố này của việc đào tạo thiêng liêng cho linh mục tương lai bằng cách sử dụng từ CHRIST theo kiểu lấy các chữ cái đầu 179 cho một nền linh đạo đặt Chúa Kitô làm trung tâm: 

       Cross (Thập Giá)

Cuộc sống và thừa tác vụ linh mục bắt nguồn nơi Thập Giá Chúa Giêsu, một con đường duy nhất để bước theo Ngài: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16,24). Mẹ Hội Thánh không bao giờ che giấu thập giá; Hội Thánh tán dương và suy tôn thập giá. Không thể xem thập giá như là một gánh nặng, nhưng đúng hơn như là cây gậy nâng đỡ. “Cuộc sống của linh mục càng cắm rễ sâu vào thập giá, thì càng sinh nhiều hoa quả.”180 Vì thế, chúng ta không bao giờ nên che chắn cho chủng sinh thoát khỏi bóng thập giá, thoát khỏi khía cạnh hy sinh trong cuộc sống và tác vụ của họ.

       Humanity (Nhân Tính)

Nhân tính của Chúa Giêsu gây kinh ngạc cho chúng ta, khi chúng ta đọc và suy niệm Tin Mừng (Mc 10,14; 6,35; 1,41; Lc 7,11; Ga 11,35). Ta nhìn thấy nhân tính của Chúa Giêsu cách rõ ràng nhất nơi lòng trắc ẩn của Ngài. Lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu khiến Ngài liên kết với mọi người: người bệnh tật và đau khổ, người nghèo đói và bị áp bức, kẻ tội lỗi cũng như các thánh nhân (Mc 10,46; 5,30; Lc 21,2). Linh mục không thể vô cảm, miễn nhiễm hay lãnh đạm trước những nỗi đau buồn và những cuộc đấu tranh của những con người mà ngài săn sóc.181 Sống tác vụ với người bệnh tật và đau khổ, người nghèo đói và thiếu thốn cách nào đó làm chúng ta nên mềm mại và dịu dàng, khiến chúng ta trở nên nhân bản hơn và nên giống Chúa Kitô.182

        Reconciliation (Hoà Giải)

Chúa Kitô đến để hoà giải chúng ta với chính mình, với người khác, với Thiên Chúa và với tất cả thế giới được tạo thành. Ngài chữa lành những gì đã bị đổ vỡ, tập hợp những gì đã bị phân tán, hiệp nhất những gì đã bị chia rẽ (2 Cr 5,19; Ga 11,52; Dt 4,15; Mt 11,19; Lc 23,43).

Các nhà đào tạo là những thừa tác viên và sứ giả của sự hoà giải. Nhưng các ngài cũng cần nhận thức sâu xa nơi chính mình rằng các ngài vẫn mang những hạt giống tội lỗi và ích kỷ; rằng các ngài cần hoán cải và hoà giải trước tiên. Đồng thời, các ngài cần đào tạo và giúp các chủng sinh của mình nhận thức, một cách khiêm tốn và trung thực, sự dữ trong lòng họ, để họ phải được hoà giải với chính họ, với người khác, với tạo thành và với Thiên Chúa, và trở nên những sứ giả bình an và hoà hợp trong cộng đoàn chủng viện cũng như trong Hội Thánh và xã hội.183

       Interiority (Nội Tâm)

Các Tin Mừng miêu tả Chúa Giêsu như là một con người cầu nguyện trong mối hiệp thông sâu xa nhất với Chúa Cha (Mt 14,23; 26,36.42.44;27,46; Mc 6,46; 14,32; Lc 6,12; 9,18.28; 10,21; 11,1; 23,46). Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ Ngài cầu nguyện bằng chính gương mẫu của Ngài. Lòng gắn bó của Ngài với con người cũng xuất phát dồi dào từ mối hiệp thông của Ngài với Chúa Cha.

Việc đào tạo thiêng liêng phải vun trồng đời sống nội tâm, đời sống cầu nguyện, chiêm niệm trong hành động, đặc biệt là đối với các linh mục giáo phận là những vị sống trong trần gian nhưng không thuộc về trần gian. Vậy việc đào tạo thiêng liêng phải giúp các chủng sinh tập và yêu mến cầu nguyện, dành ưu tiên cho việc cầu nguyện và hằng ngày dành thời gian tốt đẹp cho Chúa.184 Đời sống thiêng liêng đích thực là “sống trong tình hiệp nhất thân mật và liên lĩ với Chúa Cha, qua Con Ngài là Chúa Giêsu Kitô, trong Chúa Thánh Thần”. Nhờ đó, “các ngài thủ đắc được tinh thần cầu nguyện, học cách bảo vệ và củng cố ơn gọi của mình, gia tăng các nhân đức khác và tăng trưởng trong lòng nhiệt thành đem mọi người về cho Chúa Kitô.”185

       Servanthood (Phục Vụ như Tôi Tớ)

Ở Á Châu, các linh mục vẫn còn được tôn trọng và kính phục; các ngài được hưởng một uy tín và quyền lực nào đó giữa người tín hữu, ngay cả xã hội cũng dành cho các ngài một qui chế.

Việc đào tạo thiêng liêng phải làm sáng tỏ, sửa lại và thay đổi nhãn quan của các chủng sinh về mặt này theo gương mẫu Chúa Giêsu, Đấng “đã đến không phải để được phục vụ nhưng là phục vụ và hiến ban mạng sống hầu cứu chuộc muôn người” (Mc 10,45; Mt 20,28). “Chúa Giêsu hiểu những yếu đuối của chúng ta, những thất bại của chúng ta, những cảm giác ngã lòng, lo sợ và cô đơn của chúng ta. Chính Ngài cũng đã trải nghiệm những khó khăn này.”186 Tinh thần phục vụ của một tôi tớ vô dụng, kẻ chỉ làm bổn phận mình (Lc 17,10) sẽ làm cho các chủng sinh vui vẻ chấp nhận và quảng đại dấn thân trong những nhiệm vụ được trao phó, với nhận thức rằng thầy sẽ không được phong chức để thống trị cộng đoàn Kitô hữu, nhưng để trao tặng cộng đoàn ấy tinh thần phục vụ vị tha của mình.187

      Teacher (Thầy Dạy)

Việc đào tạo thiêng liêng nhắm mục đích huấn luyện các chủng sinh nên Thầy Dạy Lời Chúa nhờ chính đời sống cầu nguyện và chiêm niệm của họ: “Có mối tương quan thiết yếu giữa việc cầu nguyện cá nhân và việc rao giảng… Việc rao giảng hiệu quả là một hoa trái khác của việc cầu nguyện cá nhân.”188 Trước khi dạy dỗ và rao giảng, các linh mục phải có kinh nghiệm bản thân về Lời Chúa, như cô Maria đã ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe lời Ngài (Lc 10,38-42), hay người môn đệ học được từ nguồn kinh nghiệm cá nhân của thầy Guru. Các ngài không dạy dỗ hay rao giảng “về chính bản thân mình hay những ý kiến riêng mình, nhưng là một Tin Mừng mà các ngài là những thừa tác viên với lòng trung tín trọn vẹn.”189

 

D.  Nâng Đỡ và Nuôi Dưỡng Thiêng Liêng

Như trong cuộc sống con người, cha mẹ trao ban sự sống cho con cái và phải bảo vệ sự sống đó, nuôi dưỡng và chăm sóc cho con cái lớn lên tới lúc trưởng thành về mọi phương diện, để đến lượt mình, con cái lại tiếp tục trao ban sự sống cho thế hệ tiếp theo và như thế dòng chảy sự sống sẽ được tiếp nối. Cũng vậy, việc đào tạo phải nuôi nấng và tăng cường đời sống thiêng liêng cho các linh mục tương lai, những người cũng sẽ trở thành những thầy dậy cầu nguyện, những nhà đào tạo và linh hướng, những người sẽ giúp nhiều thế hệ tương lai trong đời sống thiêng liêng cho đến khi hoàn tất chương trình cứu độ của Thiên Chúa.

Theo chiều hướng này, người ta tìm được sự nâng đỡ và nuôi dưỡng trong giáo huấn của Hội Thánh.

Trước hết, về phương tiện siêu nhiên: Lời Chúa trong cả hai bàn tiệc Phụng vụ Lời và Phụng vụ Thánh Thể, bí tích Sám Hối được chuẩn bị nhờ việc xem xét lương tâm hằng ngày, việc đọc sách thiêng liêng để chuyên cần tìm kiếm những dấu chỉ của thánh ý Thiên Chúa và những thúc đẩy của Chúa Thánh Thần nơi những sự kiện khác nhau trong cuộc sống, mẫu gương tuyệt vời của Đức Trinh Nữ Maria, việc viếng thăm và sùng kính Bí Tích Thánh Thể, những cuộc tĩnh tâm và linh hướng, trí nguyện và khẩu nguyện.190

Thứ hai, về phương tiện tự nhiên: sự quan tâm của Giám Mục và cuộc sống huynh đệ giữa các linh mục, sự trợ giúp của các tín hữu giáo dân với tình bằng hữu, sự hiểu biết và hợp tác.191 Đức Gioan Phaolô II thúc giục các Giám Mục Việt Nam luôn gần gũi các linh mục, để nâng đỡ các linh mục trong những chương trình mục vụ, để chú tâm đến đời sống hằng ngày và đồng hành với các linh mục, đặc biệt khi họ gặp phải những khó khăn liên hệ đến thừa tác vụ của họ. Cũng cần phải dành sẵn cho họ những kỳ đào tạo thiêng liêng và tri thức thích ứng với những thách đố truyền giáo mà họ phải đối mặt.192

Thứ ba, lòng trung thành với thừa tác vụ cũng sẽ nâng đỡ và thánh hoá linh mục.193 Linh mục phải thánh thiện để cử hành những mầu nhiệm thánh, và những mầu nhiệm thánh được cử hành sẽ thánh hoá linh mục: nhờ các hành động thiêng thánh … các linh mục được dẫn tới sự trọn hảo trong đời sống và trong việc luyện tập đức ái mục tử, các ngài sẽ khám phá ra mối ràng buộc của sự trọn lành linh mục, trong khi đó sự thánh thiện cũng giúp nhiều cho linh mục sống một tác vụ sinh hoa kết trái. Linh mục thu lượm được của ăn thiêng liêng từ chính những hoạt động mà ngài dấn thân vào.

Thứ tư, việc đào tạo thường xuyên sẽ nâng cao đời sống linh mục và làm cho đời sống ấy sinh thêm nhiều hoa trái. Bởi vậy, Sắc Lệnh Đào Tạo Linh Mục (Optatam Totius) ước mong rằng việc huấn luyện linh mục phải được duy trì và kiện toàn, bằng những phương tiện phù hợp để từng bước đưa chủng sinh vào đời sống linh mục và hoạt động tông đồ một cách hiệu quả.194 Chức Vụ và Đời Sống Linh Mục (Presbyterorum Ordinis) thúc giục các linh mục hoàn thiện, cách thích hợp và không gián đoạn, kiến thức của các ngài về những sự  thánh, cũng như những công việc của con người, hầu nuôi dưỡng và củng cố đời sống thiêng liêng của các ngài.195 Những Mục Tử Như Lòng Mong Ước (Pastores Dabo Vobis) xem việc thường huấn như là một bổn phận, và chỉ dẫn chi tiết nhiều hình thức và phương tiện cho việc đào tạo thường xuyên cho mọi linh mục thuộc mọi lứa tuổi và mọi điều kiện sống, đặc biệt là các linh mục trẻ.196

Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã đáp lại sớm nhất với tài liệu nêu trên. Văn Phòng Giáo Dục và Tuyên Uý Sinh Viên được chỉ định chuẩn bị và điều hành chương trình đào tạo thường xuyên và nhấn mạnh những điểm sau:

* việc học tập của hàng giáo sĩ trẻ;

* thay đổi lại mô hình Giáo Hội học;

* hội nhập văn hoá và đối thoại giữa các niềm tin;

* phụng vụ và cuộc sống;

* lối tiếp cận trong linh hướng;

* đạo đức sinh học; và

* những quan tâm đến những mức độ và giai đoạn khác nhau của đời sống linh mục, và thời gian nghỉ phép.197

Tóm lại, trong mọi trạng huống của đời sống và thừa tác vụ, các linh mục luôn được nhắc nhở rằng không gì có thể tách các ngài ra khỏi tình yêu vĩnh cửu của Chúa Kitô và lời hứa cứu độ của Thiên Chúa. Không hề sợ hãi, các ngài nhìn vào sự canh tân và biến đổi trong cuộc sống và thừa tác vụ linh mục của mình, nhờ hoạt động quyền năng của Chúa Thánh Thần. Đằng sau gương mặt luôn đổi thay của thế giới luôn tồn tại gương mặt cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã hứa với các ngài “Thầy luôn ở cùng anh em!”

còn tiếp

VỀ MỤC LỤC
Một Số Ngộ Nhận với Bệnh Tiểu Ðường
 

Ngày 3 tháng 11 năm 1983, nguyên Tổng Thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đã công bố tháng 11 hàng năm là thời gian để nhắc nhở dân chúng về bệnh tiểu đường cũng như khích lệ mọi nguời cố gắng loại bỏ căn bệnh hiểm nghèo này. Hiện nay, tại Mỹ có khoảng 16 triệu trường hợp tiểu đường với trên 10 triệu được xác định đang mang bệnh, trên 5 triệu chưa biết là có bệnh hay không.

Trong khi đó thì Liên Hiệp Quốc cũng dành ngày 14 tháng 11 mỗi năm để các quốc gia thành viên cùng nhau tìm cách ngăn chặn sự bành trướng của bệnh tiểu đường. Ðây là ngày sinh của khoa học gia Gia Nã Ðại Frederick Banting, nguời mà vào năm 1922 đã chứng minh insulin do tụy tạng sản xuất và vai trò của insulin với bệnh tiểu đường. Năm nay, chủ đề của ngày tiểu đường thế giới là ‘Kiểm soát đường huyết tốt để sống vui sống khỏe’.Trên thế giới hiện nay có hơn 200 triệu người bị tiểu đường và bệnh là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ tư trong số những bệnh không truyền nhiễm.

Bệnh tiểu đường đang có chiều hướng gia tăng tại mọi quốc gia, vì dinh dưỡng được cải thiện, dân chúng ăn uống dư thừa, thoải mái hơn nhưng lại ít vận động cơ thể. Ngoài ra, còn rất nhiều người không hiểu rõ về bệnh cũng như các biến chứng do bệnh gây ra.

Vài hiểu biết căn bản về bệnh Tiểu Ðường

1- Thực phẩm căn bản của con người là carbohydrate, chất đạm và chất béo. Carbohydrate có hai thành phần chính: đường (sugars) như fructose, glucose, lactose và tinh bột (starches). Ðường lưu hành trong máu và là nguồn năng lượng quan trọng cho các tế bào. Glucose không phải là đường trắng tinh chế mà ta mua ở ngoài chợ.

2- Glucose được hormon insulin từ tụy tạng chuyển vào tế bào để tạo ra năng lượng cho các hoạt động của cơ thể.

3- Khi không được dùng, glucose sẽ bị loại đồng loạt ra khỏi cơ thể, trong nước tiểu. Thế là ta bị bệnh Tiểu Ðường 

4- Tiểu Ðường là bệnh mạn tính, không chữa dứt được. 

5- Bệnh gây ra do tụy tạng không sản xuất đủ insulin hoặc do cơ thể không sử dụng được insulin.

6- Insulin có nhiệm vụ đưa dường glucose từ máu vào tế bào để chuyển ra năng lượng. Thiếu insulin, glucose sẽ lưu hành tràn ngập trong máu, đưa đến cao đường huyết.

4- Glucose sẽ bị loại ra khỏi cơ thể qua nước tiểu. Tên ‘Tiểu Ðường’’ hoặc ‘Ðái Tháo Ðường’ từ đó mà có.

5- Ðể thải glucose, thận cần lấy nước từ các tế bào. Bệnh nhân đi tiểu nhiều đưa tới cơ thể thiếu nước, và bệnh nhân sẽ uống nhiều nước (một trong mấy dấu hiệu chính của bệnh).

6- Cơ thể lấy năng lượng từ chất béo trong người, bệnh nhân mất cân (dấu hiệu chính), nên ăn nhiều (dấu hiệu chính). Ăn nhiều mà nhiều người vẫn gầy.

7- Có hai loại Tiểu Ðường chính :

     a-Loại I thường thấy ở trẻ em và lớp người dưới 30 tuổi, có tính cách thừa kế, đôi khi do môi trường (virus). Trong loại này, tụy tạng không sản xuất insulin và người bệnh cần được điều trị lâu dài bằng insulin.

    b-Loại II : Thường thấy ở người trên 40 tuổi, người mập phì, trong gia đình có người bị tiểu đường. Bệnh nhân có một ít insulin nhưng cơ thể không dùng được. Ðiều trị bằng dinh dưỡng hợp lý, vận động cơ thể, thuốc viên hoặc insulin.

8- Ngoài ra, còn tiểu đường tạm thời khi có thai, tăng chức năng tuyến thượng thận, suy thận, cường tuyến giáp, viêm hoặc cắt bỏ tụy tang, căng thẳng tâm thần, tác dụng phụ của dược phẩm (corticosteroids, thuốc chống trầm cảm, thuốc lợi tiểu...)..

9- Dấu hiệu bệnh: Với loại I, bệnh nhân không có insulin, nên dấu hiệu có thể xuất hiện ngay từ khi mới bị bệnh. Với loại II, bệnh nhân có một ít insulin, glucose được sử dụng một phần nào, nên nhiều khi dấu hiệu không rõ ràng. Bệnh được tình cờ tìm ra khi đi kiểm tra tại phòng mạch bác sĩ.

Dấu hiệu thường thấy : Tiểu tiện nhiều, uống nước nhiều, ăn nhiều để bù số năng lượng mất vì glucose tiểu ra ngoài... 

10- Tiểu đường gây ra nhiều biến chứng trầm trọng như suy thận, cao huyết áp, bệnh tim, vữa xơ động mạch, thoái hóa võng mạc, khiếm thị, mất cảm giác ngoại vi, rối loạn cương dương, nhiễm trùng bàn chân...

11- Tiểu đường có thể kiểm soát được bằng ăn uống hợp lý, giảm cân nếu mập phì, vận động cơ thể, thuốc viên, thuốc chích insulin, hiểu biết căn bản về bệnh....

12- Bệnh nhân cần thử nghiệm đường huyết tại nhà thường xuyên và ghi kết quả, để theo dõi tình trạng bệnh và thay đổi liều lượng thuốc cũng như chế độ dinh dưỡng.

13- Các nhà chuyên môn y khoa học đề nghị là, mỗi 3 năm, mọi người nên thử nghiệm coi xem có bị bệnh tiểu đường hay không. Người có nhiều nguy cơ bị tiểu đường (tuổi ngoài 40, mập phì, có thân nhân bị tiểu đường...) nên thử nghiệm thường xuyên hơn.

Một số ngộ nhận với bệnh tiểu đường

Ở đời, con người thường có một số ngộ nhận đối với mọi sự việc, ngay cả trong vấn đề sức khỏe,  bệnh tật. Nguyên do đưa đến ngộ nhận là không có hiểu biết hoặc tiếp nhận nguồn tin tức không được chính xác. Với bệnh Tiểu Ðường, nhiều người cũng có những hiểu nhầm cần được làm sáng tỏ. Như là :

1- Tiểu đường có thể lây lan?

Tiểu đường là một bệnh về nội tiết, gây ra do tụy tạng không sản xuất được insulin hoặc insulin có ít và không có tác dụng. Vì vậy, bệnh không lây lan nhưng bệnh có thể thừa kế (inherit) nếu trong gia đình có người bị tiểu đường.

2- Như vậy thì khi bố mẹ bị tiểu đướng là con cái cũng bị bệnh?

Không hoàn toàn đúng hẳn, Khi trong gia đình có người bị tiểu tường, thì con cháu có thể thừa kế gen gây bệnh. Như vậy có nghĩa là con cháu có nhiều nguy cơ hơn để dễ dàng mắc bệnh chứ không đương nhiên bị bệnh. Ngoài ra, nếu con cháu áp dụng các phương thức phòng tránh bệnh như giảm cân khi mập phì, dinh dưỡng hợp lý, vận động cơ thể...thì rủi ro mắc bệnh giảm. 

3- Tôi nghe nói có nhiều loại thuốc chữa dứt được bệnh tiểu đường?

Cho tới nay chưa có phương thức nào chữa dứt được bệnh tiểu đường mà chỉ có thể kiểm soát mức độ đường huyết và tránh được các biến chứng của bệnh. Nhờ đó mà người bệnh có thể sống đời sống bình thường.

4- Ăn nhiều đường sẽ bị bệnh tiểu đường?

Ðây là một ngộ nhận có từ thuở xa xưa : ăn nhiều đường, đái ra đường, kiến bu kín chung quanh bãi nước tiểu. Khi đó, người ta gọi tiểu đường là bệnh ‘nước tiểu mật ong’.

Thực ra, tiêu thụ quá nhiều đường tinh chế không trực tiếp gây ra bệnh tiểu đường, nhưng có thể đưa tới mập phì, vì đường có nhiều calori mà không có chất dinh dưỡng. Căn cứ theo thống kê, thì 80% người mập kiểu trái táo, với bụng bự, sẽ có nhiều nguy cơ bị bệnh tiểu đường loại II hơn là người cân nặng bình thường.

5- Vậy thì tôi không được ăn đường hay sao?

Bệnh nhân vẫn có thể ăn đường nhưng số lượng đường tiêu thụ phải bao gồm trong tổng số carbohydrate dùng trong ngày. Ngoài ra, bệnh nhân cũng nên dùng đường chung với các món ăn khác, nhất là với thực phẩm có chất xơ, để glucose vào máu từ từ, chứ không tăng vọt.

Xin nói thêm là, đường cũng ‘cứu’ người bị tiểu đường. Ðó là khi đường huyết đột nhiên xuống quá thấp, đặc biệt là khi đang trị bệnh bằng thuốc viên hạ đường hoặc insulin. Ðể tránh ngất xỉu, chóng mặt...bệnh nhân phải tức thì ăn một chút đường, như một cục kẹo, một ly nước trái cây để cơ thể có đủ glucose.

6- Có người nói đường hóa học độc lắm, lại có người nói nấu chè với đường hóa học ăn rất ngon?

Ðường nhân tạo là đề tài của nhiều nghiên cứu với kết quả là khen cũng nhiều và chê cũng lắm. Tuy nhiên, theo Cơ Quan Thực Phẩm và Dược Phẩm Hoa Kỳ, đường hóa học tương đối an toàn nếu dùng đúng số lượng theo hướng dẫn của cơ quan này và nhà sản xuất. Với một số người, đường thay thế có thể gây ra vài phản ứng nhẹ như chóng mặt, nhức đầu, tiêu chẩy, no hơi... Nếu dùng quá nhiều, đường lại cho vị đắng.

Ngoai trừ đường aspartame (Nutrasweet, Equal), các đường nhân tạo khác đều có thể dùng như gia vị trong việc nấu nướng, để thêm vị ngọt cho món ăn. Nhưng nếu dùng để nấu chè thì e rằng ta sẽ tiêu thụ quá nhiều hóa chất, tích tụ lại sẽ có hại, đồng thời giá cả cũng đắt hơn đường tinh chế.

6- Bị tiểu đường là tôi phải bớt ăn cơm, ăn bánh mì?

Nói ‘bớt ăn’ cơm gạo thì cũng không đúng lắm, mà phải ăn cơm, bánh mì... cân bằng với các loại thực phẩm khác, theo tỷ lệ 50% carbohydrate, 30% chất béo và 20% chất đạm. Cơm, mì..là nguồn năng lượng quý báu cho cơ thể mà ta không được loại bỏ.

Có người đề nghị chế độ ít carbohydrate, nhưng lại tăng chất đạm và chất béo. Theo chế độ này lâu ngày, bệnh nhân có nguy cơ bị bệnh tim, bệnh thận nhiều hơn.

Vì thế, cân bằng các loại thực phẩm là điều cần làm. Ăn gạo lức, còn cám thì đường glucose vào máu chậm hơn là khi ăn gạo trắng tinh, hết cám.

7- Tôi ăn rất nhiều trái cây vì nghe nói trái cây tốt cho người bị tiểu đường?

Trái cây là món ăn tốt cho mọi người, dù bị tiểu đường hay không. Trái cây không có cholesterol, có nhiều chất xơ và sau khi ăn, các loại đường trong trái cây chuyển vào máu từ từ nên không gây ra cao đường huyết đột ngột.

Tuy nhiên, nếu tiêu thụ nhiều trái cây quá thì cũng là điều không nên.vì ta sẽ bỏ qua các thực phẩm cần thiết khác. Ðồng thời, ăn nhiều trái cây cũng mang vào cơ thể nhiều chất ngọt, và đường huyết sẽ tăng.

8- Có người nói tôi tuyệt đối không được uống rượu, có đúng không ?

Nói là tuyệt đối không uống rượu thì cũng quá khắt khe với thứ nước ‘Tinh Thần ‘ này và cũng gây ‘buồn buồn’ cho người bệnh. Theo các nhà chuyên môn dinh dưỡng, người tiểu đường vẫn có thể thưởng thức một lượng rượu vừa phải (một lon la de, một ly rượu vang..) trong bữa ăn. Nhưng nên nhớ rằng rượu cũng có một ít carbohydrate, cho nên nếu ‘dô ! dô !’thả cửa thì đường huyết sẽ lên cao.

Hơn nữa, đang chữa bệnh bằng insulin mà uống nhiều rượu vào lúc đói bụng thì đường huyết sẽ xuống quá thấp, vì rượu làm giảm khả năng cơ thể lấy glucose từ kho dự trữ.

9- Tôi chỉ hơi bị tiểu đường từ nhiều năm nay?

Thực ra, không có chuyện ‘hơi bị tiểu đường’ mà chỉ có bệnh tiểu đường hoặc không có. Bị tiểu đường khi đường huyết thử hai lần khi đói cao hơn 126mg/dl hoặc cao hơn 200mg/dl thử hai lần bất cứ lúc nào trong ngày. Ðề nghị quý vị « hơi bị » tiểu đường đi bác sĩ để được xét nghiệm, xác định cho rõ ràng, kẻo rồi quá trễ...

10- Tôi uống thuốc hạ đường huyết đều đặn là đủ, đâu có cần giữ gìn ăn uống?

Thuốc chỉ là một thành phần trong việc điều trị bệnh tiểu đường. Các thành phần khác như ăn uống cân bằng, hợp lý, có nếp sống lành mạnh, thường xuyên vận động cơ thể... cũng rất quan trọng để giúp thuốc tác dụng hữu hiệu hơn

11- Bệnh nhân tiểu đường phải ăn theo một chế độ riêng biệt?

Các nhà dinh dưỡng đều đồng ý rằng, bệnh nhân tiều đường có thể dùng cùng các loại thực phẩm như mọi người nhưng với số lượng vừa phải, thích hợp với mức độ đường huyết và liều lượng các thuốc hạ đường huyết đang dùng. Và họ cũng không cần tốn tiền mua những sản phẩm được gọi là « dành riêng cho bệnh tiểu đường ».

12- Trẻ em bị tiểu đường, lớn lên sẽ hết?

Trẻ em bị bệnh tiểu đường thường là do tụy tạng không sản xuất được insulin và được xếp vào loại I, phụ thuộc vào insulin. Trong trường hợp này, các tế bào tụy tạng sản xuất insulin bị hủy hoại, không tái tạo được, cho nên các em tiếp tục mang bệnh và cần insulin cho tới tuổi trưởng thành. Hy vọng một ngày gần đây, khoa học có thể ghép tế bào tụy tạng để cơ quan này tự sản xuất insulin.

13- Trẻ em không mắc bệnh tiểu đường loại II?

Trước đây thì nhận xét này có lẽ đúng chứ bây giờ không đúng nữa. Trong những năm gần đây, số trẻ em mắc tiểu đường loại II ngày một gia tăng vì các em ăn uống hơi buông thả, lại ít vận động cơ thể nên các em bị bệnh mập phì nhiều hơn. Và mập phì là một trong mấy rủi ro đưa tới tiểu đường loại II.

14- Phụ nữ bị bệnh tiểu đường, không thể có thai được? 

Cách đây vài thập niên, nhận xét này có thể là đúng vì phương thức trị liệu bệnh tiểu đường còn kém công hiệu và sự hiểu biết về bệnh còn ít ỏi. Bây giờ nhờ có nhiều tiến bộ trong việc điều trị, chăm sóc, phụ nữ bị tiểu đường vẫn có thể có thai, vẫn sanh con mạnh khỏe. Tuy nhiên họ cần lưu ý nhiều hơn trong việc kiểm soát đường huyết và tránh ăn uống buông thả, tùy theo ý thích

15- Bệnh nhân tiểu đường dễ đau ốm, cảm cúm?

Mang bệnh tiểu đường thì người đó cũng có thể gặp các rủi ro như người không bệnh. Cho nên nếu không cẩn thận, giữ gìn sức khỏe thì cũng dễ dàng mắc bệnh như ai. Còn như nếu muốn phòng tránh bệnh, như bệnh cúm, thì phải chích ngừa hoặc đừng hít phải virus cúm. Hơn nữa, nếu chẳng may bị cúm thì đường huyết sẽ lên cao ngay.

16- Có người nói rằng mắc bệnh tiểu đường sẽ không được lái xe hơi?

Nếu đường huyết được kiểm soát thì bệnh nhân tiểu đường lái xe cũng an toàn như mọi người. Có nhiều dư luận muốn giới hạn bệnh nhân chữa bằng insulin không được lái xe, vì e ngại đường huyết xuống quá thấp, bệnh nhân có thể gây tai nạn vì chóng mặt, mất định hướng...

17- Các căng thẳng của đời sống không có ảnh hưởng gì tới bệnh tiểu đường?

Có ảnh hưởng chứ, vì khoa học đã chứng minh rằng những hoàn cảnh khó khăn, những cơn khủng hoảng tinh thần đều làm đường huyết lên cao.

18- Bệnh nhân tiểu đường có thể ăn thả cửa các món ăn ‘ không có đường’ sugar-free?

Sugar-free không có nghĩa là không có calori. Nếu ăn thả cửa các món ăn này thì sẽ dễ dàng bị mập phì, và nguy cơ mắc bệnh tiểu đường lên cao. Cho nên, bệnh nhân cần lưu ý tới số lượng calori trong thực phẩm để tránh mập và giữ mức đường huyết bình thường.

19- Một số người khỏe mạnh bình thường mặc dù đường huyết cao, vậy thì họ đâu có phải bị bệnh tiểu đường?

Một vài rối loạn cơ thể như căng thẳng tinh thần, bệnh nhiễm hoặc một vài loại dược phẩm có thể làm đường huyết tạm thời lên cao ở một số người không bị tiểu đường. Nhưng cao đường huyết không phải là chuyện bình thường, cần phải được bác sĩ thử nghiệm kỹ càng hơn.

20- Bị tiểu đường lâu năm là biết rõ khi nào đường huyết tăng, cần gì phải thử máu cho mất công?

Ðồng ý là khi đường lên cao, triệu chứng như khát nước, tiểu nhiều sẽ xuất hiện và ta biết ngay. Nhưng, muốn biết glucose cao thấp bao nhiêu để có thể gia giảm thuốc thì chỉ có thử máu mới biết. Hơn nữa, đôi khi các dấu hiệu chỉ xuất hiện khi đường huyết rất cao, và như vậy thì biến chứng của bệnh đã quá trầm trọng rồi. Cho nên, cần tự thử đường huyết nhiều lần trong ngày. Ðo đường trong nước tiểu không chính xác lắm, vì đôi khi thận chỉ thải glucose khi đường huyết cao hơn 180mg/dl.

21- Khi phải tăng liều lượng insulin thì chắc là bệnh trở nên trầm trọng lắm?

Khác với nhiều dược phẩm, insulin không có một liều lượng nhất định cho mọi người bệnh. Insulin cần được gia giảm thường xuyên tùy theo kết quả thử đường huyết. Ðường huyết thay đổi tùy theo chế độ ăn uống, vận động cơ thể, thời gian trong ngày. Người bệnh đều được hướng dẫn cách tự thử đường huyết và thay đổi số lượng insulin cho thích hợp. Ngoài ra, để tránh đường huyết xuống thấp, insulin được bắt đầu với liều lượng nhỏ, rồi tăng dần tùy theo kết quả thử glucose trong máu.    

Kết luận

Tiểu đường là bệnh nghiêm trọng, thường thấy, điều trị tốn kém nhưng có thể kiểm soát được. Ðó là nhờ ăn uống hợp lý, hoạt động cơ thể, giảm cân nếu quá cao, dùng thuốc theo chỉ dẫn, thử đường huyết tại gia...

 Ngoài ra, cũng nên tìm hiểu cặn kẽ về bệnh, phân biệt sự thật với huyền thoại...để an tâm trị bệnh, tận hưởng niềm vui cuộc đời...

Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức, Texas-Hoa Kỳ

VỀ MỤC LỤC

- Mọi liên lạc: Ghi danh, thay đổi địa chỉ, đóng góp ý kiến, bài vở..., xin gởi về địa chỉ

giaosivietnam@gmail.com

- Những nội dung sẽ được đề cao và chú ý bao gồm:

Trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong việc mục vụ của Giáo sĩ;  Những tài liệu của Giáo hội hoặc của các Tác giả nhằm mục đích Thăng tiến đời sống Giáo sĩ; Cổ võ ơn gọi Linh mục; Người Giáo dân tham gia công việc “Trợ lực Giáo sĩ” bằng đời sống cầu nguyện và cộng tác trong mọi lãnh vực; Mỗi  Giáo dân phải là những “Linh mục” không có chức Thánh; Đối thoại trong tinh thần Bác ái giữa Giáo dân và Giáo sĩ… (Truyền giáo hay xây pháo đài?)

- Quí vị cũng có thể tham khảo những số báo đã phát hành tại

www.conggiaovietnam.net

Rất mong được sự cộng tác, hưởng ứng của tất cả Quí vị

Xin chân thành cám ơn tất cả anh chị em đã sẵn lòng cộng tác với chúng tôi bằng nhiều cách thế khác nhau.

TM. Đặc San Giáo Sĩ Việt Nam

Lm. Luca Phạm Quốc Sử  USA

 

 

Được chọn giữa loài người và cho loài người; GÍAO SĨ: Xuất phát từ gíao dân, hiện diện vì gíao dân và cậy dựa vào gíao dân, để cùng làm VINH DANH THIÊN CHÚA

*************